tag:blogger.com,1999:blog-86559611631068775392024-02-19T17:13:20.018+11:00Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng HòaVinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.comBlogger184125tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-41420144847039355372011-11-06T19:55:00.000+11:002011-11-06T20:56:09.197+11:00Việt Nam Cộng Hòa Ra Đời Trong Hoàn Cảnh Nào? - Nguyễn Huy Hùng<center><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj4d2eIBeYXKakFVKvVwHwN5sU8ffzWVnLEz-jWeeCqJvjtmffDd0pAVNS_fsdCarm0LeJH69porbvz-uJQxJlCZA3RBIB5Qe7aaUQNyCQVuGCj2l8bqxjdBbd486RQii2e_7aqvIaZ4LY/s1600/image0044.jpg"><img style="width: 400px; height: 389px; cursor: pointer;" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5671809432000484578" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj4d2eIBeYXKakFVKvVwHwN5sU8ffzWVnLEz-jWeeCqJvjtmffDd0pAVNS_fsdCarm0LeJH69porbvz-uJQxJlCZA3RBIB5Qe7aaUQNyCQVuGCj2l8bqxjdBbd486RQii2e_7aqvIaZ4LY/s400/image0044.jpg" border="0" /></a><br /><span style="color: rgb(0, 0, 102); font-weight: bold;">QUỐC HUY VIỆT NAM CỘNG HÒA</span><br /><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;">Dấu triện (seal) của Phủ Tổng Thống thời Đệ Nhất Cộng Hoà.</span><br /></center><br /><div style="text-align: justify;"><span style="color: rgb(51, 51, 51);font-size:85%;" ><span style="font-style: italic; font-weight: bold;">Nguyễn Huy Hùng</span></span><br /><br />Hàng năm cứ đến khoảng cuối tháng 10 qua đầu tháng 11 Dương Lịch là một số người đă từng hưởng nhiều ân huệ của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, lại vận động tổ chức ngày tưởng niệm để ghi nhớ công ơn ông đă thành lập nước VIỆT NAM CỘNG HOÀ tại miền Nam Việt Nam sau khi hoàn tất việc thi hành Hiệp định đình chiến do Pháp và Việt Minh ký tại Genève ngày 21-7-1954.<br /><br />Nhiều Bạn Trẻ thắc mắc muốn biết hoàn cảnh nào đă đưa đẩy khiến cho ông Ngô Đình Diệm có được cơ hội thành lập nước Việt Nam Cộng Hoà theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế của Hiệp chủng Quốc Hoa Kỳ và lên làm Tổng Thống tại miền Nam Việt Nam, nhưng lại không có thì giờ ngồi sưu tập các tài liệu ghi chép các sự kiện lịch sử đă xẩy ra tại Việt Nam trong những năm thuộc thế kỷ 20, nên trăn trở chẳng biết phải làm sao.<br /><br />Do đó, tôi xin ghi lại dưới đây một số những sự kiện trọng yếu đă xẩy ra tại Việt Nam trong những năm thuộc thế kỷ 20, và hoàn cảnh nào đă giúp cho ông Ngô Đình Diệm có thời cơ trở thành người Anh Hùng tạo dựng ra nước Việt Nam Cộng Hoà vào năm 1956 tại miền Nam Việt Nam.<br /><br />Nhưng vì tuổi tác đã cao trên 80, trí nhớ cũng suy giảm do ảnh hưởng sau 13 năm chịu cảnh đọa đầy trong các trại tập trung cải tạo lao động khổ sai của chính phủ nước Cộng Hoà xă hội chủ nghiă Việt Nam sau ngày Quốc Hận 30-4-1975, toàn thể đất nước Việt Nam bị đặt dưới quyền thống trị độc tài chuyên chính độc đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên những ghi nhận và suy luận được trình bầy có thể là chủ quan theo hiểu biết nông cạn của tôi, cũng có thể phiến diện hoặc thiếu sót, xin Quý Vị còn minh mẫn vui lòng miễn chấp và bổ túc giúp cho, tôi cám ơn vô cùng.<br /><br /><strong>1. CHIẾN CUỘC TẠI ĐÔNG DƯƠNG XOAY CHIỀU, CHÍNH PHỦ PHÁP PHẢI RÚT QUÂN RA KHỎI VIỆT NAM.</strong><br /><br />Giữa năm 1949, Trung Cộng thắng thế ở Trung Hoa Lục địa, do đó tình hình chiến trận tại Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, đặc biệt là tại Bắc Việt trở nên rất sôi động. Tháng 5 năm 1949, Chính phủ Pháp phải cử Tướng Revers sang thanh sát tình hình và nghiên cứu trình kế hoạch đối phó. Sau khi công cán về nước, Tướng Revers đề nghị rút bỏ Cao Bằng (biên giới Việt Nam-Trung Hoa) để:<ul>1. Gom quân giữ Quốc lộ 4 từ Lạng Sơn đến Tiên Yên;<br />2. Củng cố bình định vùng đồng bằng Bắc Việt;<br />3. Lấn chiếm cô lập khu Việt Bắc của chủ lực Việt Minh gồm các tỉnh Thái Nguyên, Lào Kay, Tuyên Quang, và Yên Bái.</ul>Chủ định thâm sâu của Pháp là tái lập Thuộc địa Đông Dương dưới hình thức mới, nên không được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Do đó Pháp e ngại Trung Cộng (chủ nhân ông mới của Trung Hoa Lục địa) xua quân can thiệp hỗ trợ cho Việt Minh Cộng sản, nên phải thu về thủ vùng đồng bằng để bảo toàn lực lượng, và tìm phương kế mới.<br /><br />Kế hoạch của Tướng Revers đề nghị, được Chính phủ Pháp chấp thuận cho thi hành vào cuối năm 1949. Nhưng vì tại Đông Dương lúc đó, đang có sự bất đồng ý kiến giữa Tướng Carpentier (Tổng Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp) tại Saigon và Tướng Alexandri (Tư lệnh đoàn quân tại Bắc Việt), nên măi tới cuối tháng 8 năm 1950 mới thực hiện, mặc dù qua tin tức tình báo, chính phủ Pháp, Cao ủy Đông Dương Pignon, và Tướng Carpentier, đều biết rằng Kế hoạch Revers đă bị tiết lộ.<br /><br />Phía Việt Minh, không biết bằng cách nào đã dò biết được Kế hoạch Revers, nên tướng Võ Nguyên Giáp với sự trợ giúp trang bị vũ khí đạn dược, huấn luyện quân sĩ, và cố vấn hành quân của Trung Cộng, đã ráo riết chuẩn bị mở màn thử thách khả năng chiến đấu của bộ đội Việt Minh.<br /><br />Ngày 18-9-1950, các đơn vị Việt Minh được sự yểm trợ của Pháo binh và súng cao xạ bắn máy bay, đã khởi tấn công và chiếm được đồn Đông Khê, rồi bao vây cô lập Cao Bằng. Sau đó thừa thế tiếp tục khai triển mặt trận Cao Bằng-Lạng Sơn, kéo dài cho tới ngày 7-10-1950. Pháp thất bại nặng nề, phải rút bỏ Cao Bằng, Thất Khê, Na Chầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, và Lao Kay.<br /><br />Trận đánh này đă làm tăng uy thế cho Việt Minh, rúng động tinh thần quân sĩ Pháp tại Đông Dương, cũng như các giới chính trị Pháp và Hoa Kỳ. Dân chúng Pháp bắt đầu gọi cuộc chiến tại Đông Dương là “Chiến tranh sa lầy”, các Đảng phái chính trị Pháp cấu kết với nhau làm áp lực chính trị, khiến các chính phủ Pháp thay phiên nhau sụp đổ liên tục, làm cho tình hình tại cả bên chính quốc lẫn tại Đông Dương ngày một rối rắm thêm. Để gỡ rối, Chính phủ Pháp cố gắng tìm một Tướng làm Tổng Tư lệnh mới thay thế Tướng Carpentier tại Đông Dương. Các Tướng Juin và Tướng Koenig được tham khảo, nhưng 2 ông này từ khước vì Chính phủ Pháp không thể thoả măn được những điều kiện các ông ấy đòi hỏi. Sau cùng, Tướng Jean Marie Gabriel De Lattre De Tassigny được lựa chọn. Ông này nhận lời ngay với một điều kiện duy nhất là phải cho ông ta rộng quyền chỉ huy.<br /><br />Ngày 7-10-1950, Đại tướng De Lattre được đề cử làm Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Đúng 10 ngày sau, Tướng De Lattre lên đường nhậm chức, mang theo cả một Bộ Tham Mưu hùng hậu để làm trụ cột giúp ông ta hoàn thành sứ mạng lớn lao đă nhận lănh. Trong suốt 9 tháng trời ròng ră tiếp theo, ông ta đă chứng tỏ tài lănh đạo chỉ huy và hành quân táo bạo của mình, qua các trận Vĩnh Yên giữa tháng 1-1951 (chết mất người con trai duy nhất là Trung úy Bernard), trận Mạo Khê cuối tháng 3-1951, trận “Bờ Sông Đáy” cuối tháng 5-1951, và đặc biệt là kế hoạch xây dựng “Phòng tuyến Bê tông De Lattre” để bảo vệ đồng bằng Bắc Việt trong Vùng Tam Giác: Moncay, Việt Trì, Ninh Bình, và “Phòng Lũy Hải Phòng”. Tướng De Lattre đă làm cho tinh thần Quân Sĩ được phục hồi, đồng thời tạo được sự tin tưởng của Chính phủ Pháp và các Đồng minh Hoa Kỳ, Anh Cát Lợi,…<br /><br />Giữa tháng 9-1951, Tướng De Lattre được Chính phủ Pháp cho đi công cán sang Hoa Kỳ xin viện trợ. Có lẽ nhờ trận Việt Minh tấn công quân Pháp tại vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, có sự hiện của quân Trung Cộng trong hàng ngũ quân Việt Minh, y như trận Bắc Hàn tấn công Nam Hàn mà Mỹ và Đồng minh phải can thiệp cũng có sự hiện diện của quân Trung Cộng trong hàng ngũ quân Bắc Hàn, nên Hoa Kỳ thay đổi thái độ đối với Pháp. Nhờ thế, Tướng De Lattre đă xin được Mỹ viện trợ cho Pháp tiếp tục cuộc chiến tại Đông Dương, dưới nhiệm vụ mới là “Ngăn chặn sự bành trướng của Quốc tế Cộng sản ở vùng Đông Nam Á Châu”, mà Việt Minh là tay sai tiền phương của Liên Sô và Trung Cộng. Viện trợ chỉ được chấp thuận với một điều kiện tiên quyết kèm theo là: “Pháp phải thành thực trao trả quyền Độc Lập, Tự do, cho các Chính phủ Quốc gia không Cộng sản tại Đông Dương, và xúc tiến nhanh chóng việc thành lập, huấn luyện, và trang bị quân sự cho các Quốc gia này có đủ khả năng tự vệ, tiêu diệt Cộng sản địa phương, bảo đảm an ninh cho dân chúng phát triển kinh tế. Đặc biệt phải để cho các Quốc gia này có quyền Tự do giao thương trực tiếp với tất cả các nước Tư bản, ngoài khối Liên Hiệp Pháp, không phải qua trung gian của Pháp.”<br /><br />Ngày 28-9-1951, hai ngày sau chuyến công du của Tướng De Lattre chấm dứt, chiếc tầu biển Eartham Bay của Hoa Kỳ đã từ Manilla chở tới Saigon, rất nhiều vũ khí nhẹ và đạn dược đủ loại. Đồng thời, một đoàn 30 Phóng pháo cơ B-26 do phi công Hoa Kỳ lái từ Phi Luật Tân qua, đáp xuống phi trường Cát Bi (Hải Phòng), trao cho Pháp trong âm thầm không kèn không trống. Mười hai (12) chiếc trong số phi cơ này đă được Hoa Kỳ biến cải thành loại máy bay soi sáng (Luciole), dùng để thả hoả châu soi sáng chiến trường ban đêm, trong thời gian liên tục 1 tiếng đồng hồ cho mỗi phi cơ.<br /><br />Cũng nhờ thế nên ngày 1 tháng 10 năm 1951, ông Trần văn Hữu Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng Chính phủ Quốc Gia Việt Nam mới chính thức công bố việc thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN) chống Cộng sản (gồm 8 Sư đoàn nhẹ trong 5 năm, riêng năm 1951 dự trù thành lập Sư đoàn 1 ở miền Nam, Sư Đoàn 2 ở miền Trung, Sư đoàn 3 ở miền Bắc, và Sư đoàn 4 ở vùng Cao Nguyên Trung phần Việt Nam). Ngày 16-10-1951 ban hành Lệnh Tổng Động Viên khoảng 15.000 thanh niên có bằng cấp từ Trung học trở lên vào học các khoá đào tạo Sĩ quan Trừ bị cấp tốc tại Thủ Đức và Nam Định. Rồi lần lần sau đó, thành lập Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN, Trường Quân Y, và các Trường Võ bị Địa phương (Ecole Militaire Régionale) đào tạo các Chuẩn úy Trung đội trưởng, ngoài số Thiếu úy Hiện dịch do Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt đã và đang đào tạo (Trường VBLQ ĐàLạt được thành lập từ năm 1948). Các Trung tâm Huấn luyện Tân binh và Hạ sĩ quan cũng lần lượt được thành lập, và hoạt động náo nhiệt để thành lập các đơn vị cấp Tiểu đoàn, Trung đoàn Bộ Binh và các đơn vị Binh chủng, Nha, Sở chuyên môn.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 51, 51); font-style: italic;">(Thời gian này, Tôi là Trung Úy mới mãn khóa Sỹ quan Truyền Tin tại Trường Truyền Tin Montargis bên Pháp về vào đầu tháng 7-1951, được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Mật Mă thuộc văn phòng Đổng lý Bộ Quốc Phòng do Thiếu Tá Nguyễn văn Vận làm Đổng Lý. Sau này Thiếu Tá Vận rời Bộ Quốc Phòng ra Hà Nội được thăng cấp lần lần tới Thiếu Tướng Tư lệnh Quân Khu 3 vào năm 1954)</span><br /><br />Được sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Quân đội Viễn chinh Pháp ồ ạt xây dựng các doanh trại và cơ sở rất lớn rộng cho các Cơ quan Chỉ huy và Đơn vị Hành chánh Tiếp vận Trung Ương tại các vùng Tân Sơn Nhứt, Gò Vấp, Bình Lợi, Cát Lái (Gia Định), Khánh Hội (Saigon), và Biên Hoà. Theo dự tính của Tướng De Lattre, các Cơ sở này phải đủ tầm vóc có thể biến thành các Cơ sở Chỉ huy và Tiếp vận cho các Lực lượng Liên Hiệp Quốc xử dụng khi cần phải đến Việt Nam để điều khiển chiến tranh ngăn cản Cộng sản Quốc tế xâm lăng các nước thuộc Đông Nam Á Châu, như họ đã đến tham gia cuộc chiến tại bán đảo Triều Tiên.<br /><br />Vào tháng 12 năm 1951, Tướng De Lattre qua đời, Tướng Raoul Salan được cử thay thế làm Tổng Tư lệnh, để tiếp tục giải quyết cuộc “Chiến tranh sa lầy” không lối thoát của Pháp tại Đông Dương. Nội tình nước Pháp tiếp tục lục đục, chính phủ Queuille bị đổ vào tháng 2-1952. Tại Bắc Việt, Tướng Salan rút bỏ Hoà Bình vào cuối tháng 3-1952. Thủ tướng mới của Chính phủ Pháp là Pinay vẫn giữ chính sách cũ đối với Đông Dương. Ông Letourneau được bổ nhiệm làm Bộ trưởng các Quốc gia Liên kết, kiêm nhiệm chức Cao Ủy Đông Dương kể từ tháng 4-1952, và Tướng Salan được chỉ định làm Tổng Tư lệnh Quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Bộ trưởng Letourneau phải thường xuyên hoạt động tại chính quốc, làm gì có thời giờ chạy qua chạy lại giữa Pháp và Đông Dương, nên Tướng Salan vô hình chung có được toàn quyền quyết định y như cố Đại tướng De Lattre thuở còn sinh thời.<br /><br />Sở dĩ Tướng Salan được lựa trám chỗ trống của De Lattre, vì ông ta đă từng ở Việt Nam lâu năm, tham dự nhiều trận chiến với Việt Minh từ hồi 1947, đă cộng tác mật thiết với Tướng De Lattre trước khi ông này qua đời, nên thông thạo lối đánh của Việt Minh. Ngoài ra, ông ta còn có được cái trí khôn của người Á Đông vì lấy vợ người Việt Nam, hút thuốc phiện, theo vợ đi lễ các Đền, Chùa, am tường các phong tục tập quán của các Sắc dân Đông Dương. Chiến công của Tướng Salan từ sau ngày thay thế De Lattre, chỉ là cuộc hành quân rút lui khỏi Hoà Bình trong an toàn không bị sứt mẻ, và xây dựng “Pháo lũy Na Sản” giữ được mặt trận vùng Bắc Thái (phiá Tây, Bắc Việt) vững vàng trong suốt 3 tháng (10, 11, và 12-1952). Còn tình hình toàn diện Đông Dương chẳng có gì khả quan hơn.<br /><br />Qua tháng 5-1953, Tướng Navarre được cử thay thế Tướng Salan làm Tổng Tư lệnh Quân Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương. Ông này xào xáo lại các kế hoạch của các Tướng tiền nhiệm, rút tỉa các kinh nghiệm, để hệ thống hoá thành kế hoạch chiến thuật mới của mình là:<ul>1. Phòng thủ miền Bắc;<br />2. Bình định miền Nam;<br />3. Lập một Binh đoàn Chủ lực lưu động, để có thể đánh ở bất cứ nơi nào có sự tập trung quân của Địch (Việt Minh).</ul>Kế hoạch được mở màn bằng cuộc hành quân “Castor” vào cuối tháng 11-1953, để hỗ trợ việc xây dựng “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ” với mục đích:<ul>a. Buộc Việt Minh phải chấp nhận một trận công kiên chiến, mà Pháp tin rằng họ sẽ thắng vì có ưu thế hơn về Không quân và Tiếp liệu.<br /><br />b. Cầm chân Chủ lực quân Việt Minh tại miền Bắc để chúng không thể tiếp sức cho miền Nam, nhờ thế Pháp sẽ bình định Liên Khu V gồm các Tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên, tại miền trung tâm của Trung Việt Nam một cách dễ dàng.<br /><br />c. Dùng Điện Biên Phủ làm “Căn cứ Bàn đạp” đánh vào Hậu tuyến Việt Bắc, nếu Việt Minh di quân khỏi nơi này để tấn công vùng đồng bằng sông Hồng. Tiếc thay, Bộ tham mưu của Tướng Navarre ước tính sai lệch quá nhiều. Việt Minh đă tập trung được quanh Điện Biên Phủ, một lực lượng nhiều tới 100,000 quân. Với sự yểm trợ của Trung Cộng, Việt Minh còn kéo được cả súng Đại pháo qua đỉnh núi, đào hầm bố trí ngay trên sườn núi nhìn thẳng xuống thung lũng Điện Biên Phủ. Thế mà Pháp cho rằng, Việt Minh chỉ có thể tập trung quanh Điện Biên Phủ khoảng 20,000 quân là tối đa, và lòng chảo Điện Biên Phủ không thể bị uy hiếp bằng Pháo binh, vì các Đại pháo chỉ có thể bố trí phiá bên kia các dẫy núi quanh lòng chảo, xa quá tầm tác xạ của súng.</ul>Cuối tháng 11-1953, tình hình chiến sự bỗng chuyển biến đột ngột. Bốn (4) Sư đoàn Việt Minh kéo lên áp lực miền Bắc Thái (Tây Bắc, Bắc Việt). Qua tháng 12-1953, Tướng Navarre phải cho lệnh rút quân bỏ Lai Châu và toàn vùng Bắc Thái, để tập trung về Điện Biên Phủ, đồng thời mở nhiều cuộc hành quân ở vùng thượng lưu sông MêKông để củng cố phòng thủ miền Bắc Lào (nước Ai Lao).<br /><br />Đầu năm 1954, tình hình lắng dịu tại khắp các chiến trường phụ trên toàn cõi Đông Dương. Riêng tại Điện Biên Phủ tình hình coi như đang có nhiều điều thuận lợi cho quân Pháp. Nhưng, vào trung tuần tháng 2-1954, Hội nghị Bá Linh (Berlin, Đức) được mở ra để thảo luận về việc thành lập một Hội nghị chính thức tại Genève để tìm giải pháp cho vấn đề đình chiến tại Đông Dương, đă khiến tình hình chiến sự trở nên bất lợi cho quân Pháp, và làm cho Tướng Navarre bị ngỡ ngàng.<br /><br />Đầu tháng 3-1954, Việt Minh rút Sư đoàn 308 đang uy hiếp Luang-Prabang (Lào), đem về tăng cường bao vây Điện Biên Phủ. Đến ngày 13-3-1954, Việt Minh mở đầu các cuộc tấn công trên khắp các mặt trận Đông Dương (kể cả Điện Biên Phủ), nhằm mục đích phô trương khả năng quân sự mới để áp đảo tinh thần quân Liên Hiệp Pháp và các Quốc gia Liên kết Đông Dương, đồng thời tạo điều kiện thượng phong tại Hội nghị Genève. Quân Pháp bị cầm chân tại tất cả mọi nơi, nên không còn quân số tiếp ứng cho nhau, nhất là cho “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ”.<br /><br />Đến cuối tháng 4-1954, Bộ Tư lệnh Pháp cho mở cuộc hành quân “Atlante” đánh vào Quân khu V của Việt Minh tại trung Việt, nhưng chẳng đem lại kết quả gì, nếu không muốn nói là uổng công vô ích.<br /><br />Ngày 7 tháng 5-1954, sau 55 ngày đêm tự lực cầm cự, “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ” đă phải xin đầu hàng vô điều kiện. Dư luận Pháp rất hoang mang, chia rẽ, tranh cãi trầm trọng, khiến Chính phủ Pháp phải đưa Tướng Paul Ely Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Pháp sang Đông Dương thay thế Tướng Navarre, với quyền hạn rộng răi là Cao Ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh tại Đông Dương, như đă dành cho Tướng De Lattre hồi trước. Nhưng, Tướng Ely cũng chẳng làm được gì hơn, là tiếp tục nhận lãnh những thất bại chua cay, trong âm mưu tái lập thuộc địa lỗi thời của Pháp tại Đông Dương sau Thế chiến II.<br /><br />Mấy tuần lễ sau vụ Pháp thất trận Điện Biên Phủ, chiến cuộc Đông Dương được giải quyết ngă ngũ, chấm dứt bằng giải pháp chính trị tại Hội nghị Genève với một Hiệp Định đình chiến, ký kết vào lúc 01:00 giờ ngày 21 tháng 7 năm 1954 tại Genève giữa Pháp và Việt Minh. Đại diện Hoa Kỳ và Đại diện Chính phủ Quốc gia Việt Nam khước từ không ký vào bản Hiệp định. Theo Hiệp định này, nước Việt Nam bị phân làm 2 phần Nam, Bắc. Vĩ tuyến 17 và dòng sông Bến Hải được dùng làm ranh giới giữa 2 miền. Từ giữa lòng con sông trở lên phiá Bắc thuộc quyền kiểm soát cai trị của Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh cầm đầu. Phần từ giữa lòng con sông trở xuống phiá Nam thuộc trách nhiệm của Chính quyền Pháp và Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo.<br /><br />Thi hành Hiệp định Genève, Bộ Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp của Tướng Ely phối hợp cùng Chính phủ Quốc gia Việt Nam do ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng, tổ chức một cuộc di tản vĩ đại ngoạn mục trong vòng 300 ngày, cho hơn một triệu Dân Quân Cán chính không thích sống dưới Chế độ Cộng sản rời miền Bắc vào Nam tái lập nghiệp, và hàng chục ngàn Cán Binh Cộng sản từ miền Nam buộc phải tập kết ra Bắc. Thời hạn triệt thoái quân Pháp và quân Quốc gia ra khỏi Bắc Việt theo lối cuốn chiếu quy định như sau: phải ra hết khỏi Hà Nội trong thời hạn 80 ngày kể từ ngày ký Hiệp Định Genève, do đó ngày chót được ấn định cho Hà Nội là ngày 11-10-1954; 100 ngày cho Hải Dương do đó ngày chót được ấn định là ngày 1-11-1954; và 300 ngày cho Hải Phòng do đó ngày chót được ấn định là ngày 19-5-1955.<br /><br /><strong>2. THỜI CƠ GIÚP CHO QUỐC GIA VIỆT NAM CHÍNH THỨC CÓ ĐƯỢC CHỦ QUYỀN ĐỘC LẬP TRONG MỌI LÃNH VỰC TỔ CHỨC QUẢN TRỊ HÀNH CHÁNH, CHÍNH TRỊ NGOẠI GIAO ĐỐI NỘI ĐỐI NGOẠI, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ QUỐC PHÒNG TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM.</strong><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIKJtZlG8LPf7Qdb3BZ_Sg-COluTBrg9Pl-ALuAf9w8NFCSARQY7XnCPPYbELGt1IZErBVhG2An1QOmOZOTuT-Pn35nDJYCSBVnJ2vPhPsU5dJz5pJ5o71GwFRlvQ905d_rMyMlI28Jic/s1600/baodai.jpg"><img style="width: 200px; height: 190px; cursor: pointer;" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5671809431119763506" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIKJtZlG8LPf7Qdb3BZ_Sg-COluTBrg9Pl-ALuAf9w8NFCSARQY7XnCPPYbELGt1IZErBVhG2An1QOmOZOTuT-Pn35nDJYCSBVnJ2vPhPsU5dJz5pJ5o71GwFRlvQ905d_rMyMlI28Jic/s400/baodai.jpg" align="right" border="0" hspace="9" /></a>Từ ngày Cựu Hoàng Bảo Đại nhận lănh sự ủy nhiệm của các Đảng phái chính trị không theo Cộng sản tại Việt Nam, đứng ra thương thuyết và ký với Pháp Hiệp Ước sơ bộ tại Vịnh Hạ Long để giành lại quyền độc lập cho nước Việt Nam thống nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam vào ngày 5-6-1948, rồi đến trưa ngày 8 tháng 3 năm 1949 tại Paris có thêm THOẢ ƯỚC ÉLYSÉE giữa Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và Quốc trưởng Bảo Đại, vào ngày này, hai người trao đổi văn thư, theo đó “Pháp long trọng công nhận” một nước Việt Nam độc lập và dân chúng có quyền tự do quyết định sự thống nhất lãnh thổ của mình, theo tinh thần Hiệp Ước Hạ Long, kèm theo một phụ bản các điều thoả thuận với PIGNON, cho đến ngày ký Hiệp định Đình chiến tại Genève 20-7-1854, đă có tới 7 chính phủ thay nhau điều hành Quốc gia Việt Nam:<ul>1. Nguyễn văn Xuân, từ 2-6-1948 đến 30-6-1949.<br />2. Bảo Đại, từ 1-7-1949 đến 20-1-1950,<br />3. Nguyễn Phan Long, từ 21-1-1950 đến 5-5-1950,<br />4. Trần văn Hữu, từ 6-5-1950 đến 25-5-1952,<br />5. Nguyễn văn Tâm, từ 26-5-1952 đến 15-1-1954,<br />6. Bửu Lộc, từ 16-1-1954 đến 6-7-1954,<br />7. Ngô Đình Diệm từ 7-7-1954 tới 23-10-1955.</ul>Thư ngày 8-3-1949 của Auriol gửi Bảo Đại gồm 7 mục chính:<ul>1. Việt Nam thống nhất (Unité du Vietnam)<br />2. Vấn đề Ngoại giao (Question diplomatique)<br />3. Vấn đề Quân sự (Question militaire) Việt Nam sẽ có một Quân đội riêng để duy trì trật tự, an ninh nội địa và bảo vệ Triều đại (la defense de l’Empire). Trong trường hợp tự vệ, có thể được các lực lượng Liên Hiệp Pháp yểm trợ (appuyé par les forces de l’Union francaise). Quân đội VN cũng tham dự vào cuộc bảo vệ biên cương của toàn Khối Liên Hiệp Pháp.<br />4. Vấn đề chủ quyền trong nước (Souveraineté interne).<br />5. Vấn đề tư pháp<br />6. Vấn đề văn hoá<br />7. Vấn đề kinh tế và tài chánh.</ul><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;">(</span><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic; font-weight: bold;">Ghi chú:</span><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;"> Đoạn văn chữ nghiêng nét đậm trên đây là trích từ trang 119 trong cuốn VIỆT NAM NIÊN BIỂU 1939 (Tập B :1947-1954) của Chính Đạo do nhà phát hành Văn Hoá in năm 1997 tại Hoa Kỳ. Đặc biệt Tôi có thay một chữ trong mục 3. ….., an ninh nội địa và bảo vệ Triều đại (la defense de l’Empire). …. Thay cho chữ .. bảo vệ đế quốc (la defense de l’Empire)….. như trong nguyên bản, vì Tôi nghĩ Việt Nam chưa bao giờ là Đế quốc, thời trước 1945, Pháp gọi là L’Empire d’Annam tức là Vương quốc Annam do Bảo Đại làm vua (Empereur.)</span><br /><br />Đến ngày 28-4-1956, Bộ Tư lệnh quân Pháp tại Đông Dương giải tán, tất cả các Cơ sở và Căn cứ trước đây do Pháp xây dựng chiếm đóng, đều trao hết cho Chính phủ và Quân đội Quốc gia Việt Nam thừa hưởng. Dinh Norodom tọa lạc tại trung tâm Thủ đô Saigon trước kia dành cho Cao Ủy Pháp tại Đông Dương, nay là trụ sở của Chính phủ Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Dinh Độc Lập. Camp Chanson to lớn bên cạnh phi trường Tân Sơn Nhất trước kia là nơi làm việc của Bộ Tư lệnh quân viễn chinh pháp tại Đông Dương, nay thuộc quyền xử dụng của Bộ Tổng Tham Mưu (Bộ TTM) Quân đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN) và đổi tên là Trại Trần Hưng Đạo. Hospital Rocques rộng lớn của đoàn quân Viễn chinh Pháp xây dựng tại Gò Vấp sát bên Bộ TTM và phi trường Tân Sơn Nhất, nay thuộc quyền QĐQGVN và đổi tên là Tổng Y Viện Cộng hoà. (Không biết cái tên Roques Tôi nhớ có đúng không, bạn nào biết là sai xin vui lòng chỉnh giùm, Tôi vô cùng cám ơn). Còn rất nhiều Doanh trại, Căn cứ, và Cơ sở khác tại Saigon và tại các Tỉnh trên toàn lănh thổ miền Nam Vĩ tuyến 17 được Pháp trao lại cho Chính quyền Quốc gia miền Nam Việt Nam, nhưng Tôi thấy không cần liệt kê hết ra đây.<br /><br />Vào tháng 8-1956, Chính phủ Pháp loan báo việc đề cử ông Henri Hoppenot làm Cao Ủy Đông Dương. Nhưng, ông Ngô Đình Diệm đang lãnh đạo Chính quyền Quốc gia Việt Nam với chức vị tự phong là Tổng Thống từ ngày 26-10-1955 thay thế Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế từ ba ngày trước đó 23-10-1955, đã dựa theo các điều khoản của Hiệp định Genève không chấp nhận, nên Chính phủ Pháp phải đổi lại chức vụ là Đại sứ Pháp tại Việt Nam.<br /><br />Đến ngày 26-10-1956, lễ ban hành Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà (theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế của Hiệp chủng Quốc Hoa Kỳ, do Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra vào ngày 4 tháng 3 năm 1956 biên soạn và biểu quyết chuẩp thuận) mới được tổ chức rất trang trọng tại Đại lộ Trần Hưng Đạo, Saigon. Buổi lễ này cũng đồng thời là Lễ Tuyên Thệ chính thức nhậm chức Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hoà đẩu tiên tại miền Nam Việt Nam của ông Ngô Đình Diệm, trước toàn dân và Ngoại giao đoàn quốc tế đă có mặt tại Saigon từ thời Quốc gia Việt Nam còn thuộc quyền lãnh đạo của Quốc trưởng Bảo Đại. (Quốc Hội Lập Hiến gồm 123 Dân Biểu thuộc các thành phần sau: Phong trào Cách mạng Quốc gia 47 ghế, độc lập không đảng phái nào 39 ghế, Tập đoàn Công dân 18 ghế, Phong trào Tự do 11 ghế, và 5 đảng phái chia nhau 8 ghế.)<br /><br />Sau khi quân Pháp rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, ảnh hưởng Pháp tan biến dần để thay thế bởi ảnh hưởng Hoa Kỳ. Bởi vì, ngay từ khi mở Hội nghị Bá Linh bàn thảo việc thành lập Hội nghị Genève giải quyết vấn đề chiến tranh Đông Dương, Hoa Kỳ đă ngầm vận động thúc đẩy Quốc trưởng Bảo Đại mời ông Ngô Đình Diệm (đang ở Mỹ) về làm Thủ Tướng, thay thế Thủ tướng Bửu Lộc được coi là thân Pháp.<br /><br /><strong>3. THỜI CUỘC BIẾN ĐỔI Đà TẠO CƠ HỘI CHO THỦ TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM GIÀNH ĐƯỢC QUYỀN LÃNH ĐẠO QUỐC GIA VIỆT NAM, THAY THẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI Đà RỜI VIỆT NAM SANG PHÁP TỪ NGÀY 10-4-1954 SỐNG TẠI BIỆT THỰ RIÊNG Ở CANNES, ĐỂ CHỮA BỆNH SÁN GAN VÀ VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ GIÚP GIẢI QUYẾT CUỘC CHIẾN CHỐNG CỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM.</strong><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjWmGDk7LnTtrE7xCsOaxeeG7feyQCIwIvXQoIQH4YQpZTClxtfMp_iRPHW3hiGT5-4JjUBMo6BFP4x3ciFlsvDZ6mEylMroLeydh-0COr6wQMvfSzSW7br9Dg9trWJANcopYg1EggsuwQ/s1600/ngodinhdiem.jpg"><img style="width: 272px; height: 265px; cursor: pointer;" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5671809433783548802" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjWmGDk7LnTtrE7xCsOaxeeG7feyQCIwIvXQoIQH4YQpZTClxtfMp_iRPHW3hiGT5-4JjUBMo6BFP4x3ciFlsvDZ6mEylMroLeydh-0COr6wQMvfSzSW7br9Dg9trWJANcopYg1EggsuwQ/s400/ngodinhdiem.jpg" align="left" border="0" hspace="9" /></a>Tại Saigon trong khoảng những ngày cuối tháng 5 sang đầu tháng 6-1954, các hãng thông tấn quốc tế và quốc nội loan truyền tin đồn đoán là ông Ngô Đình Diệm sẽ làm Thủ Tướng thay thế Thủ Tướng Bửu Lộc. Nhưng măi đến ngày 16-6-1954, Quốc Trưởng Bảo Đại, từ tư dinh tại thành phố Cannes bên Pháp, mới chính thức công bố quyết định cử ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng với toàn quyền hành động (tức là mọi quyết định quan trọng liên quan đến quốc gia không cần phải thỉnh ý Quốc Trưởng trước như các Thủ Tướng tiền nhiệm).<br /><br />Ngày 25-6-1954 ông Ngô Đình Diệm từ Pháp về tới phi trường Tân Sơn Nhất Saigon, được sự tiếp đón theo nghi lễ ngoại giao tại phòng Khách Danh Dự của phi trường, gồm một số nhân viên đại diện các Bộ trong Chính phủ Bửu Lộc, một số Sĩ quan cấp Tá Việt và Pháp thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ TTM/QĐQGVN (trong đó có Tôi đang là Thiếu Tá Chánh Sự vụ Sở Mật Mã trực thuộc văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, lúc đó Thiếu Tướng Nguyễn văn Hinh làm Tổng Tham Mưu Trưởng và Trung Tá Trần văn Minh làm Tham mưu trưởng), cùng một số thân quyến thuộc dòng họ Ngô-Đình và Nhân sĩ thân hữu của gia đình ông Ngô Đình Diệm ở trong nước.<br /><br />Những ngày tiếp theo, ông Diệm tiếp xúc các nhân sĩ để thành lập chính phủ, mãi tới ngày 7-7-1954 mới chính thức trình diện chính phủ và bắt đầu tham chánh. Thành phần chính phủ gồm có:<ul>- Ngô Đình Diệm, Thủ Tướng kiêm Nội Vụ và Quốc Phòng,<br />- Trần Văn Chương, Quốc Vụ Khanh,<br />- Trần Văn Đỗ, Tổng Trưởng Ngoại Giao,<br />- Trần Văn Của, Tổng Trưởng Tài Chánh và Kinh Tế,<br />- Nguyễn Tăng Nguyên, Tổng Trưởng Lao Động và Thanh Niên,<br />- Trần văn Bạch, Tổng Trưởng Công Chính,<br />- Phạm Hữu Chương, Tổng Trưởng Y Tế và Xă Hội,<br />- Phan Khắc Sửu, Tổng Trưởng Canh Nông,<br />- Nguyễn Dương Đôn, Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục,<br />- Trần Chánh Thành, Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng,<br />- Lê Quang Luật, Thông Tin,<br />- Phạm Duy Khiêm, Công vụ Phủ Thủ Tướng,<br />- Nguyễn Ngọc Thơ, Nội Vụ,<br />- Lê Ngọc Chấn, Quốc Phòng,<br />- Hồ Thông Minh, Thứ Trưởng Quốc Phòng,<br />- Bùi Văn Thinh, Tư Pháp,<br />- Nguyễn Văn Thoại, Kinh Tế,<br />- Trần Hữu Phương, Tài Chánh.</ul>Nhưng chỉ ít ngày sau, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bắt đầu gặp nhiều khó khăn về mọi mặt đối nội cũng như đối ngoại. Chẳng hạn:<br /><br />1. Đại diện Chính phủ Quốc gia Việt Nam không ký trên Hiệp định Genève, nhưng vẫn phải chấp nhận và cộng tác với Bộ Tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương thi hành, đặc biệt phải chấp nhận cho các cơ sở kiểm soát đình chiến do Ấn Độ (Trung Lập) làm Chủ tịch, với các thành viên Ba Lan (Cộng sản) và Canada (thuộc Thế giới Tự Do Tư Bản) đặt cơ sở hoạt động tại nhiều nơi trên lãnh thổ miền Nam, ngay cả tại giữa Thủ Đô Saigon. Trong các cơ sở kiểm soát đình chiến này có cả sự hiện diện của những người đại diện của Việt Cộng.<br /><br />2. Phải vận động nhờ Chính quyền Pháp tại Đông Dương và chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ phương tiện và ngân khoản để di tản cả triệu người (Dân, Quân, Cán chính) không thích sống dưới sự cai trị của Chính quyền Việt Cộng tại miền Bắc Vĩ tuyến 17, di cư vào miền Nam.<br /><br />3. Tổ chức tiếp đón cứu trợ ban đầu, tái định cư, và tạo công ăn việc làm, ổn định đời sống cho những người này. Vì họ đă phải bỏ tất cả của cải đất đai hương hỏa của Tổ tiên Ông Cha tại miền Bắc, ra đi vào miền Nam với 2 bàn tay trắng.<br /><br />4. Hợp nhất các Lực lượng Võ trang Giáo phái vào hàng ngũ Quân đội Quốc gia Việt Nam, để tiêu hủy nạn “phe phái hùng cứ địa phương” do Pháp tạo dựng lên trước đây, với mục đích Thực dân thâm độc “chia để trị”.<br /><br />5. Điều chỉnh cải tiến hệ thống hành chánh, để chấm dứt tệ nạn “Xứ Quân, Vua một cõi” thao túng áp bức quần chúng bằng quy luật “Phép Vua thua Lệ Làng”, hậu quả dư âm Quan lại của thời Pháp còn vương rớt lại, tại các tỉnh và ngay cả tại các Quận hành chánh giữa Saigon Chợ Lớn.<br /><br />6. Loại bỏ các tổ chức gieo rắc tệ đoan xã hội (khu bài bạc, các ổ chứa gái mãi dâm công khai hoạt động có nộp thuế) do các tay Chính trị hoạt đầu, Doanh gia bất chính, lợi dụng nước đục thả câu, với sự bảo trợ khích lệ của Thực dân Pháp đă tổ chức kinh doanh từ nhiều năm qua.<br /><br />7. Đặc biệt là phải đề ra phong trào chống Cộng, với một Chính sách dựa theo Chủ thuyết Nhân bản có thể bẻ gẫy được Chủ thuyết Cộng sản, để làm kim chỉ Nam hướng dẫn quần chúng hăng say tham gia công cuộc tố cáo và loại trừ các hoạt động của cán bộ Cộng sản nằm vùng tại miền Nam. Để dân được sống an toàn tại khắp mọi nơi, an tâm tham gia xây dựng phát triển Kinh tế phồn vinh, và hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc trong thanh bình.<br /><br />Vì thế mới có Chủ thuyết NHÂN VỊ, Đảng Cần Lao, và PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA ra đời, hoạt động thường xuyên trong mọi tổ chức hành chánh, quân đội, và các cơ sở xã hội khác trên đất liền cũng như trên các hải đảo thuộc miền Nam Việt Nam từ Vĩ tuyến 17 trở xuống.<br /><br />Mọi người sống tại miền Nam Việt Nam đều biết và cũng đã từng phải tham gia, tùy theo vị trí hoàn cảnh riêng của mỗi cá nhân và gia đình. (Thời gian đó, Tôi là Thiếu Tá Trưởng Phòng Mật Mă Trung Ương thuộc Bộ Chỉ huy Viễn Thông tại Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN, được tập thể chiến hữu thuộc các đơn vị Truyền Tin tại Saigon bầu làm Chủ tịch Phong trào Cách Mạng Quốc gia của Binh chủng Truyền Tin).<br /><br />Phong trào này nhằm mục đích đánh bóng lãnh tụ Ngô Đình Diệm, chỉ trích tinh thần bạc nhược của Quốc trưởng Bảo Đại trong việc điều hành Quốc gia, để tiến tới việc tổ chức cuộc “Trưng cầu Dân ý truất phế Bảo Đại” vào ngày 23 tháng 10 năm 1955, và ủy nhiệm cho ông Ngô Đình Diệm thành lập nước VIỆT NAM CỘNG HOÀ theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ vào ngày 26-10-1956.<br /><br />Suốt trong thời gian vận động tổ chức cuộc TRƯNG CẦU DÂN Ý vào ngày 23-10-1955, trên các phương tiện truyền thông của Chính phủ thường xuyên phổ biến bài hát thúc đẩy mọi người tích cực tham gia đi bầu rất hay. Nhưng rất tiếc Tôi chỉ còn nhớ một số câu tiêu biểu khó quên chứ không nhớ trọn bài:<ul><i>“Hai ba tháng mười là ngày trưng cầu dân ý,<br />Hai ba tháng mười là ngày phá tan ngai vàng,<br />Đứng lên toàn quốc, viết trang sử mới,<br />……..(không nhớ……”</i></ul>Và kể từ sau ngày VIỆT NAM CỘNG HOÀ ra đời 26-10-1956, nghi thức chào cờ chính thức được quy định là sau khi hát bài Quốc Ca “Tiếng gọi công dân” thì phải hát bài SUY TÔN NGÔ TỔNG THỐNG. Bài hát này do nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Bích sáng tác (ông đã qua đời vào năm 2001):<br /><br /><table border="0" cellpadding="10" cellspacing="0" width="100%"><tbody><tr></tr><tr><td class="textbody"><div align="center"> <a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/SeFtiSOnRvI/AAAAAAAAEHk/myVBh_rwjtU/s1600-h/Co_VNCH.gif"><img style="width: 252px; height: 178px; cursor: pointer;" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5323656670304749298" alt="" src="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/SeFtiSOnRvI/AAAAAAAAEHk/myVBh_rwjtU/s400/Co_VNCH.gif" border="0" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjKSfNTNLzSRLsVTBzUcUy-yX9ruaOg04y_YbQTfjo2QugCipvF_W9yzZ-3QPlwwbGu18uQfhRTJ9PO1UJ5SHdZkxaGaRTNHvxzZHZXyq442liloYzlW8xJZbeTASC5cTVQHHRcYL6QsRw/s1600-h/ngo_dinh_diem_1829798,property%3Dzoom.jpg"><img style="width: 374px; height: 400px; cursor: pointer;" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5323666703941475346" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjKSfNTNLzSRLsVTBzUcUy-yX9ruaOg04y_YbQTfjo2QugCipvF_W9yzZ-3QPlwwbGu18uQfhRTJ9PO1UJ5SHdZkxaGaRTNHvxzZHZXyq442liloYzlW8xJZbeTASC5cTVQHHRcYL6QsRw/s400/ngo_dinh_diem_1829798,property%3Dzoom.jpg" border="0" /></a><br /><br /></div><br /><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:180%;"><strong><a href="http://www.mediafire.com/?1aphn4nmjw6">Suy Tôn Ngô Tổng Thống</a> </strong></span></div><span style="font-family:Times New Roman;font-size:130%;"><strong></strong></span><div align="center"><span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;"> <span style="color: rgb(51, 102, 102);">---oo0oo---</span><br /><br /><span style="color: rgb(0, 0, 153);">Ai bao năm từng lê gót nơi quê người</span></span> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;">Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do</span> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;">Người cương quyết chống cộng</span> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;">Bài phong kiến bốc lột</span><span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;"><br />Diệt thực dân đang giắt reo tàn phá</span> </div><div align="center"> <div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;"><br />Bao công lao hồn sông núi ghi muôn đời</span> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;">Gương hy sinh ngàn muôn tiếng không hề phai</span> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;">Toàn dân quyết kết đoàn cùng chung sức với người</span> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;">Thề đồng tâm say đắp cho ngày mai</span> </div><div align="center"> <div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;"><br />Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống</span> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;">Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm</span> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;">Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống</span> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;">Xin thượng đế ban phước lành cho người</span> </div><div align="center"> <div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;"><br />Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống</span> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-size:100%;"><span style="font-family:Times New Roman;">Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm</span></span> </div><div style="color: rgb(0, 0, 153);" align="center"> <span style="font-family:Times New Roman;font-size:100%;">Toàn dân Việt Nam quyết theo Ngô Tổng Thống</span> </div><div align="center"><span style="color: rgb(0, 0, 153);"> Chung đắp say nền thống nhất sơn hà</span><br /></div><br /><table align="center" cellpadding="0" cellspacing="1"><tbody><tr><td colspan="1" align="center"><embed name="NSPlay" type="text/html" pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://www.freewebtown.com/tilangthang/Suy%20Ton%20Ngo%20Tong%20Thong.mp3" autostart="1" showcontrols="1" showpositioncontrols="1" showdisplay="0" showstatusbar="1" subtitle="0" caption="0" loop="0" height="50" width="500"></embed></td></tr></tbody></table></div></div></div></td></tr></tbody></table><span style="font-size:85%;"><span style="font-weight: bold;">Download nhạc xin bấm vào:<span style="color: rgb(0, 0, 153); font-style: italic;"> </span></span><a style="color: rgb(0, 0, 153); font-style: italic; font-weight: bold;" href="http://www.mediafire.com/?1aphn4nmjw6">Suy Tôn Ngô Tổng Thống</a></span><br /><br /><strong>Nguyễn Huy Hùng (K1)</strong><br /><span style="font-size:85%;"><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;">Cựu Đại Tá Quân lực Việt Nam Cộng Hoà,</span><br /><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;">Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến,</span><br /><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;">Cựu tù nhân chính trị 13 năm lao động khổ sai trong các trại tập trung cải tạo của chính quyền Cộng hoà xă hội chủ nghiă Việt Nam sau ngày Quốc hận 30-4-1975.</span></span><br /><br /><span style="font-size:85%;"><strong style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;">Các tài liệu tham khảo:<br /></strong><br /><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;">1. (Quân sử 4) QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ TRONG GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH 1946-1955. Do Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu biên soạn và phát hành, sách được in tại cơ sở xuất bản Đại Nam năm 1972 trụ sở Taiwan Republic of China, và được ông Đỗ Kinh Lâm tự Đỗ Ngọc Tùng (cựu sinh viên sĩ quan Khoá 4 Lý Thường Kiệt, Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam) Giám đốc nhà xuất bản Đại Nam sao in lại và phát hành vào năm 1983 tại thành phố Glendale California Hoa Kỳ.</span><br /><br /><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;">2. THÀNH TÍCH SÁU NĂM HOẠT ĐỘNG CỦA CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HOÀ ấn hành năm 1960 tại Saigon, và được ông Hồ Đắc Huân (cựu sinh viên sĩ quan Khoá 2 Hiện dịch Nha Trang) sao in lại tại Khu Little Saigon Nam California Hoa Kỳ vào tháng 7-2007 để gửi tặng riêng các thân hữu tùy nghi ủng hộ giải quyết tổn phí ấn loát chứ không in với mục đích thương mại. Ai muốn có sách có thể liên lạc với ông Huân qua điện thoại số (714) 725 5136 hoặc địa chỉ gửi thư:</span><br /><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;">HỒ ĐẮC HUÂN</span></span><ul style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;"><span style="font-size:85%;">P.O. BOX 1711<br />Westminster, CA92684</span></ul><span style="font-size:85%;"><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;">3. VIỆT NAM NIÊN BIỂU 1939-1975 (Tập B: 1947-1954) của Chánh Đạo do nhà xuất bản Văn Hoá in và phát hành tại Hoa Kỳ năm 1997.</span><br /><br /><span style="color: rgb(102, 102, 102); font-style: italic;">4. VIỆT NAM NIÊN BIỂU Tập III NHÂN VẬT CHÍ (liệt kê gần 900 tác nhân lịch sử cận đại, từ 1848 tới 1975) của Chánh Đạo do nhà xuất bản Văn Hoá in và phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1997</span><br /></span><br /></div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-3672242687505428322011-06-19T12:49:00.000+10:002011-06-19T12:50:09.233+10:00Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19-06<center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiz92zT5O2PKRKlJrv82dD1_CORecGhfgf_ahAEFIA53vVf3GOGLBmFeq7oRYrf6ZrquM9pGNBQ9glFkv_kEZy5Wm4lFmitg3VAiWzG9kKVBGKJpICKz5jTys74ABEetKpUiQ9VuHpsYoY/s1600/blogimage.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 550px; height: 300px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiz92zT5O2PKRKlJrv82dD1_CORecGhfgf_ahAEFIA53vVf3GOGLBmFeq7oRYrf6ZrquM9pGNBQ9glFkv_kEZy5Wm4lFmitg3VAiWzG9kKVBGKJpICKz5jTys74ABEetKpUiQ9VuHpsYoY/s400/blogimage.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5619693943689646258" border="0" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiL-gK2zC8aZQ2Fs8k9qfT6sHg1HO9ZDQWrz27Zi2HvBkXi9MQLDcqa5eZAegNI6pc0CMgRhWqxESqf-zGEZ5-ehak2qSOHhlSLW9c0_pGwwkFKu7EdYB__aBFzn4KVDRttsKltlzuXboc/s1600/ChuyenQuan.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 595px; height: 229px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiL-gK2zC8aZQ2Fs8k9qfT6sHg1HO9ZDQWrz27Zi2HvBkXi9MQLDcqa5eZAegNI6pc0CMgRhWqxESqf-zGEZ5-ehak2qSOHhlSLW9c0_pGwwkFKu7EdYB__aBFzn4KVDRttsKltlzuXboc/s400/ChuyenQuan.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5619693967965962386" border="0" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEju76SjftDLsd53lu_LdyjQtwKLPyDowBtVrJmQaE28gWI039dOQI-kPo9RCbXMFJ-dWEk3YOilvcBWZNa2WXIg1dqG677WQ9uLCj00eA4Bhyphenhyphen3XRHr3ZI4a7LspadMB0sxahVHYcrRrVwo/s1600/ARVN_women3.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 300px; height: 256px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEju76SjftDLsd53lu_LdyjQtwKLPyDowBtVrJmQaE28gWI039dOQI-kPo9RCbXMFJ-dWEk3YOilvcBWZNa2WXIg1dqG677WQ9uLCj00eA4Bhyphenhyphen3XRHr3ZI4a7LspadMB0sxahVHYcrRrVwo/s400/ARVN_women3.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5619693970415119106" border="0" /></a><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhrVDWYQkBuQjHi8PiV2jPT-uxswgCUzRfCXDAbYawbZz39NXdaYI9XpeVVTCcgG8EGL2uwx2IIWPRVjTFWUsszs0t8Nmq0VwAZ7WC1N3rH9DkJLu-brBSSBfznnTJYrI2fhWa8Pyg1RS0/s1600/ARVN_women1.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 300px; height: 256px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhrVDWYQkBuQjHi8PiV2jPT-uxswgCUzRfCXDAbYawbZz39NXdaYI9XpeVVTCcgG8EGL2uwx2IIWPRVjTFWUsszs0t8Nmq0VwAZ7WC1N3rH9DkJLu-brBSSBfznnTJYrI2fhWa8Pyg1RS0/s400/ARVN_women1.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5619693967398848722" border="0" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhrYRqXo4zZZnOyzcaQrnVWZzzomc4FmVm_1-qJ6qIM5Pw9SOXcyWUY5UmL9J8qYZJZwPq3fEsAA8dHs6gj1Ty2ZZN5vUx4er_wJdYpjh8b2xEHuxWDpS9VTyx0ULU6PA8c2AwTpLRWRXw/s1600/arvn5.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 327px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhrYRqXo4zZZnOyzcaQrnVWZzzomc4FmVm_1-qJ6qIM5Pw9SOXcyWUY5UmL9J8qYZJZwPq3fEsAA8dHs6gj1Ty2ZZN5vUx4er_wJdYpjh8b2xEHuxWDpS9VTyx0ULU6PA8c2AwTpLRWRXw/s400/arvn5.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5619694283453317362" border="0" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjpLVd0-DWdQZfE1JOppLMrIe8MQLqMO4_mIuO8wIptjTvJzrtFy33_T6VMew8nEOB0uXCea3bLIpZKmzW3SJzJYuKo0nxkkhqdNkFFOs4AmFM7mmWOhBdZfW-iB4LFuh58TzSsLglUdr8/s1600/QLVNCH_Nhay_Du_nu_quan_nhan.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 302px; height: 306px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjpLVd0-DWdQZfE1JOppLMrIe8MQLqMO4_mIuO8wIptjTvJzrtFy33_T6VMew8nEOB0uXCea3bLIpZKmzW3SJzJYuKo0nxkkhqdNkFFOs4AmFM7mmWOhBdZfW-iB4LFuh58TzSsLglUdr8/s400/QLVNCH_Nhay_Du_nu_quan_nhan.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5619697309733672306" border="0" /></a><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiYzSGU2XxaNZKED3dYxD0ZWwc4Y5OvHU3VG0Gi12xoUqHDvVrkUypAQ03Ac_ak-EZUMtrfoHB3iEDJ-qMCQD_xBHA2yYlJEJFd8JsJvpND6refpdb5u7n75xE733TpxZyYtHAzFMrzAks/s1600/Linh_1.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 304px; height: 306px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiYzSGU2XxaNZKED3dYxD0ZWwc4Y5OvHU3VG0Gi12xoUqHDvVrkUypAQ03Ac_ak-EZUMtrfoHB3iEDJ-qMCQD_xBHA2yYlJEJFd8JsJvpND6refpdb5u7n75xE733TpxZyYtHAzFMrzAks/s400/Linh_1.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5619697294908328002" border="0" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjG6_S3RsYyGyvCaKcfXNm8iuGHaKaTekBXrMzet5wYk6gMa7fBlB7FNAnTcfOvcISViC2rB6pDUvEb_uL5_aEmtgLCZKW9mjsMsKRtgyrLM9rHyfqD1MqvaYHTxWsPoROxI8jMV6IO_Ow/s1600/01.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 290px; height: 374px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjG6_S3RsYyGyvCaKcfXNm8iuGHaKaTekBXrMzet5wYk6gMa7fBlB7FNAnTcfOvcISViC2rB6pDUvEb_uL5_aEmtgLCZKW9mjsMsKRtgyrLM9rHyfqD1MqvaYHTxWsPoROxI8jMV6IO_Ow/s400/01.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5619697273797286226" border="0" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgw4nbczsjDKmww8qVz-TqpuGswrf4aD-TNHQUaD9CbG09T6TeK6lY05axQZNbYe2uHOe9FeEVEOjJF1y6DY3ay9IhrApHVVXIVrATzOyMYrFoeNC4mjy_cvopCSblJnmR8NFmM-WL7IpY/s1600/QLVNCH_Nu_Quan_Nhan.png"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 291px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgw4nbczsjDKmww8qVz-TqpuGswrf4aD-TNHQUaD9CbG09T6TeK6lY05axQZNbYe2uHOe9FeEVEOjJF1y6DY3ay9IhrApHVVXIVrATzOyMYrFoeNC4mjy_cvopCSblJnmR8NFmM-WL7IpY/s400/QLVNCH_Nu_Quan_Nhan.png" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5619697312485525506" border="0" /></a><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhwnzbzNJw95Fly1D_pfDGiwHncM925u4hDZDwdM2AYx-g-qE3YJqoB8abE93D0T8Ab2BFXrfH-JJM2I0ZG8xdJFhS0phJntua6tJub4Ttl1DfBCF099xljKmMlqado0VOxf2guQxGX0Do/s1600/22.png"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 286px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhwnzbzNJw95Fly1D_pfDGiwHncM925u4hDZDwdM2AYx-g-qE3YJqoB8abE93D0T8Ab2BFXrfH-JJM2I0ZG8xdJFhS0phJntua6tJub4Ttl1DfBCF099xljKmMlqado0VOxf2guQxGX0Do/s400/22.png" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5619697298377703794" border="0" /></a><br /><span style="font-family:Monotype Corsiva;"><span style="font-weight: bold; color: rgb(0, 0, 102);font-size:180%;" >Vinh Danh Quân Việt Nam Cộng Hòa</span><br /><span style="font-weight: bold; color: rgb(102, 0, 0);">19-06-2011</span></span><br /><span style="font-weight: bold; color: rgb(51, 0, 51);font-family:Lucida Calligraphy;font-size:85%;" >teolangthang.blogspot.com</span><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiszDSpraFQxPopWW_UrDeZP-alCZ0rcO4DWebQfzXomheXUlTdgpvS5AD4kOCo6sanhHOPgpgyGKL1XCMWNsf2p9e27Y21aVquUiMjcsk8wiYTjmIQeGFBSF6fYsKECtVgo4PevM_JGrc/s1600/guomthiengaiquoc..jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiszDSpraFQxPopWW_UrDeZP-alCZ0rcO4DWebQfzXomheXUlTdgpvS5AD4kOCo6sanhHOPgpgyGKL1XCMWNsf2p9e27Y21aVquUiMjcsk8wiYTjmIQeGFBSF6fYsKECtVgo4PevM_JGrc/s400/guomthiengaiquoc..jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5619740187256172322" border="0" /></a></center><br /><div style="text-align: justify;"><span style="font-size:85%;"><span style="font-weight: bold; font-style: italic;">Nguyễn thị Thảo An</span></span><br /><br />Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu.<br /><br />Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.<br /><br />Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.<br /><br />Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.<br /><br />Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.<br /><br />Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.<br /><br />Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau , Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.<br /><br />Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả … cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.<br /><br />Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.<br /><br />Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón tay. Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lõng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.<br /><br />Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình, à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.<br /><br />Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẽo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.<br /><br />Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.<br /><br />Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.<br /><br />Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phũ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.<br /><br />Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.<br /><br />Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.<br /><br />Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. Tất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.<br /><br />Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.<br /><br />Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính Việt Nam Cộng Hòa?<br /><br />Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.<br /><br />Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.<br /><br />Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.<br /><br />Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?<br /><br />Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.<br /><br />Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.<br /><br />Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không?. Ngày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?<br /><br />Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?<br /><br />Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.<br /><br />Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.<br /><br />Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.<br /><br />Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.<br /><br />Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.<br /><br />Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.<br /><br />Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.<br /><br />Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.<br /><br />Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.<br /><br />Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.<br /><br />Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm đày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.<br /><br />Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.<br /><br />Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:<ul><span style="color: rgb(0, 51, 51);font-size:130%;" ><i><span style="font-family:Monotype Corsiva;"><span style="font-weight: bold;">Ta về cúi mái đầu sương điểm</span><br /><span style="font-weight: bold;">Nghe nặng từ tâm lượng đất trời</span><br /><span style="font-weight: bold;">Cám ơn hoa đã vì ta nở</span><br /><span style="font-weight: bold;">Thế giới vui từ mỗi lẻ loi</span></span></i></span><br /><span style="font-size:85%;"><span style="font-weight: bold;">Tô Thùy Yên</span></span></ul>Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?<br /><br />Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?<br /><br />Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.<br /><br />Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.<br /><br />Ba mươi sáu năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.<br /><br />Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.<br /><br />Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.<br /><br />Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.<br /><br />Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.<br /><br />Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.<br /><br />Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề<span style="font-style: italic;"> “xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản”</span>. Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.<br /><br />Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà. Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai.<br /><br /><span style="font-weight: bold;">Nguyễn thị Thảo An</span><br /><br /><br /></div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-87785786857452364472011-06-09T16:19:00.000+10:002011-06-09T16:20:07.150+10:00Đại tá Lương Xuân Việt<center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh7Q5uOTyNknKr5m_L8P4E01XyuPlYgvVHcPznNYBoaIEsK_21L_SZoB_SDhH7UX71iLwh-YzgSLssRh5NZOvKEM7mt8WgWSaU6Ub2l5yjehfPt4bQCw7AvoS4Qv5_FZ27JcLPlEJjquMM/s1600/luongxuanviet.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 366px; height: 500px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh7Q5uOTyNknKr5m_L8P4E01XyuPlYgvVHcPznNYBoaIEsK_21L_SZoB_SDhH7UX71iLwh-YzgSLssRh5NZOvKEM7mt8WgWSaU6Ub2l5yjehfPt4bQCw7AvoS4Qv5_FZ27JcLPlEJjquMM/s400/luongxuanviet.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5616096563805647618" border="0" /></a></center><br /><div style="text-align: justify;">Từ tờ mờ sáng ngày 6 tháng 5, 2011, căn cứ Fort Campbell còn đẫm hơi sương. Nơi đây là bản doanh của sư đoàn tác chiến 101 với diện tích rộng trên 105 ngàn bộ Anh vuông là nơi đóng quân của trên 25,000 quân nhân và gia đình.<br /><br /><table width="226" align="left" border="0" cellpadding="0" cellspacing="9"><tbody><tr><td><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLvPSR1itp8STC4VKLgGtOozJHh8tSfCK1-zyJoBhDsTTXistBYbme76l4nC1eW29nLUyiGLT68GfWaov_UZCZraCaXHoPtI7CZCP3fHT08G2915ssaVoWxIo44o82ehr8gG75K3_1F_c/s1600/luong_xuan_viet_gia_dinh.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 300px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLvPSR1itp8STC4VKLgGtOozJHh8tSfCK1-zyJoBhDsTTXistBYbme76l4nC1eW29nLUyiGLT68GfWaov_UZCZraCaXHoPtI7CZCP3fHT08G2915ssaVoWxIo44o82ehr8gG75K3_1F_c/s400/luong_xuan_viet_gia_dinh.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5616096552863518802" border="0" /></a><div style="font-style: italic; color: rgb(102, 102, 102);" align="justify"><span style="font-size:85%;">Từ trái sang phải Lương Thị Thu Diễm Asley, con gái đầu lòng, bà Kim Mỹ Lương, phu nhân, Lương Xuân Quốc, contrai út Justin, Đại tá Lưong Xuân Việt và con trai lớn, Lương Xuân Huy Brandon.trong niềm vui của ngày về từ chiến trường A Phú Hãn vào đầu tháng 3, 2011 vừa qua sau 13 tháng chiến đấu với những chiến công vang dội.</span></div></td></tr></tbody></table>Fort Campbell nằm giữa ranh giới hai tiểu bang Tennessee và Kentucky. Sáng nay, căn cứ Fort Campbell tấp nập với trên 3,000 binh sĩ đang tập họp trên một sân cỏ giữa doanh trại, dưới sự chỉ huy của vị Đại tá người Mỹ Gốc Việt Lương Xuân Việt để chuẩn bị cho cuộc chạy bộ dàì 5 dậm Anh, để chào mừng Ngày của Ngưòi Mỹ gốc Á Châu Thái Bình Dương, do Lữ đoàn 3 Nhảy dù là một trong 5 lữ đoàn tác chiến cuà sư đoàn 101 tổ chức.<br /><br />Đây là một truyền thống mà sư đoàn 101 vẫn tồ chức hàng năm vào tháng 5 để ghi nhận và vinh danh người lính Mỹ gốc Á Châu Thái Bình Dương.<br /><br />Ngoài các phái đoàn người Mỹ gốc Phi Luật Tân, Đại Hàn, Samoa, Nhật bản tham dự như mọi năm, năm nay, đặc biệt, sư doàn 101 tiếp đón lần đầu tiên phái đoàn người Mỹ gốc Việt gồm gần 20 người thuộc hội Bảo Tồn Lịch Sử và Văn Hoá Người Mỹ gốc Việt (VAHF) đến từ Texas và California, Linh mục Petter Châu Đỗ, ông Đỗ Hữu Đệ, Chủ tịch và môt số thân hào nhân sĩ thuộc cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Nashville, Tennessee, phóng viên Trọng Thắng và chuyên viên quay phim John Nguyễn của đài truyền hình Viet Face TV, Bác sĩ Nguyễn Thu Thảo thuộc đài truyền hình VNA.<br /><br />Viện bảo tàng của Sư đoàn 101 chứa đầy chứng tích của chiến tranh VN.<br /><br />Quan khách được Thiếu tá Stephen Platt, tùy viên báo chí của Đại tá Việt, đưa đi thăm viếng Viện bảo tàng của sư đoàn.<br /><br />Những bộ sưu tập thật công phu và giá trị ghi chép và minh hoạ lại lịch sử của sư đoàn kể từ khi được thành lập năm 1942, cho tới những cuộc chiến tranh lừng danh trên thế giới tại Đại Hàn, Việt Nam, Iraq, và mới nhất tại A Phú Hãn.<br /><br />Chính sư doàn 101 đã đỗ bộ vào bờ biển Normandy, Pháp để giải phóng Âu châu mà trong phim <span style="font-style: italic;">“Ngày dài nhất” </span>(The longest Day) nói về đoàn quân ngoại quốc đầy hào hùng và được người dân Âu châu gọi là những anh hùng thời Đệ Nhị thế chiến mà không ai trong chúng ta là không biết đến.<br /><br />Riêng trong chiến tranh Việt Nam, bước chân của người lính sư đoàn 101 cũng đã ghi dấu khắp nơi, từ Khe Sanh, Hạ Lào,... với trận Lam Sơn 719. Tất cả đều có những chứng tích ở đây. Kể cả những <span style="font-style: italic;">“thông hành chiêu hồi được máy bay Mỹ thả ngập đuờng mòn Hồ Chí Minh để kêu gọi các chiến binh CS “tung cánh chim tìm về tổ ấm”</span>, một chương trình đã chiêu hồi được trên 200,000 sĩ quan, binh sĩ CS trong suốt 21 năm của cuộc chiến cũng được trung bày ở đây.<br /><br />“Buồn và nhớ tuổi thanh xuân biết bao!”<br /><br />Ông Nam Trần, trong phái đòan người Việt tại Nashville, Tennessee, cựu sĩ quan QLVNCH, nhiều năm tù CS, đến Mỹ năm 1993 theo diện HO. ông và gia đình sống tại New York đến năm 1995 thì dời tới Nashville làm việc cho một hãng in.<br /><br />Hiện ông và gia đình gồm một vợ 4 con, người lớn nhât 35 tuổi và con nhỏ nhất 20 tuổi còn đi học . Đời sống đã ổn định. Đứng tần ngần trước những di vật, ông Nam bùi ngùi tâm sự:<br /><br /><span style="font-style:italic;">”Tôi phục vụ trong Lữ đoàn 173, thuộc sư đoàn 22 Bộ binh đóng ở Tuy Hoà. Chúng tôi đã có dịp chiến đâu với các binh sĩ thuộc sư đoàn 101. Họ rất tinh nhuệ, tinh thần cao và bảo vệ đồng minh thật chí tình. Ông cũng nhắc đến cuộc hành quân Lam Sơn 719 với mục đích cắt đường tiếp viện của CS qua đường mòn Hồ Chí Minh năm 1971 mà hình ảnh và chứng tích đang được trưng bày kín phòng triển lãm. Ông Nam tâm sự: “Tôi thấy buồn và nhớ tới tuổi thanh xuân của mình biết bao!”</span><br /><br />Anh Minh Nguyễn chăm chú xem những chiến xa, súng đạn nhiều loại được trưng bày cùng với những tượng của những người lính với quân phục khác nhau. Anh thán phục người Mỹ đã bỏ công sức ra để lưu lại những bài học cho những thế hệ đến sau.<br /><br /><table width="226" align="right" border="0" cellpadding="0" cellspacing="9"><tbody><tr><td><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjjltERW8VEtJ73M9kWOJ7hudgTsgmK_iNgrJ82cucec8DyP1O9mAP9DRVgrIr90-eknLK7EK2nmHlAxSl3WHT9qzpfL4VuzYQdJ1LC7GBHkXcCksSkdlYMr6ymhPnPlbdRss29CvoJNwM/s1600/luong_xuan_viet_chien_truong.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 300px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjjltERW8VEtJ73M9kWOJ7hudgTsgmK_iNgrJ82cucec8DyP1O9mAP9DRVgrIr90-eknLK7EK2nmHlAxSl3WHT9qzpfL4VuzYQdJ1LC7GBHkXcCksSkdlYMr6ymhPnPlbdRss29CvoJNwM/s400/luong_xuan_viet_chien_truong.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5616096560467501282" border="0" /></a><div style="font-style: italic; color: rgb(102, 102, 102);" align="justify"><span style="font-size:85%;">Tại chiến trường A Phú Hãn, Đại tá Lương Xuân Việt, thứ hai từ bên trái, đang nói chuyện với binh sĩ của ông thuộc Lữ đoàn 3 Nhảy dù, trực thuộc Sư đoàn 101 của quân đội Hoa kỳ.</span></div></td></tr></tbody></table>Anh Minh cho biết anh, đến Mỹ qua chương trình bảo trợ ODP. Anh vượt biển nhiều lần nhưng không thoát. Sau nhờ có cha anh là cựu Hải Quân, dù có đi học tập nhưng ông đã vượt biên đến Mỹ và bảo lãnh anh và con của anh hiện đang theo học Đại học tại đây. Đới sống yên ổn không bon chen nhiều nên anh bằng lòng với cuộc sống. Anh Minh cho biết cộng đồng người Việt ở đây khỏang 5 tới 6 ngàn người ở rải rác trong hai tiểu bang Tennessee và Kentucky, số đông là những cựu sĩ quan sang đây với diện HO và sinh sống bằng nghề Nail.<br /><br />Sư đoàn 101 đã có chương trình trùng tu Viện Bảo tàng đầy giá trị này với hai dãy nhà khang trang sẽ được đặt tại con đường giáp ranh với bên ngoài để du khách có thể vào xem mà không cần phải vào trong bản doanh của sư đoàn 101. Mọi người như không muốn rời Viện Bảo tàng, nơi đang có những hình ảnh nhắc nhớ đến VN, đến một phần đời của mỗi người tại quê hương xa típ tắp nhưng Thiếu tá Platt luôn bên cạnh nhắc nhở phái đoàn phài giữ giờ cho tiết mục sắp tói.<br /><br />Trường Huấn luyện nhảy dù<br /><br />Trường huấn luyện nhảy dù tại căn cứ Fort Campbell hàng năm huấn luyên nhiền ngàn binh sĩ để cung ứng co các binh chủng.<br /><br />Với chương trình huấn luyện 10 ngày, các học viên phải học các cách nhảy từ có dù, không dù, nhảy tử trực thăng hay nhảy từ những điểm cao rồi, chạy 13 dặm trong 3 giờ đồng hồ. Nếu hoàn thành, các học viên sẽ được cấp bằng nhảy dù và trở về các đơn vị để phục vụ. Hai huấn luyện viên và 4 binh sĩ đã nhảy biểu diễn các kiểu cho phái đoàn người Mỹ gốc Việt xem. Những tiếng vỗ tay khen ngợi hào hứng và những cái vẫy tay chào quyến luyến trước khi phái đoàn được chuyển qua khu huấn luyện tác xạ.<br /><br />Khác với những xạ trường trong các trung tâm huấn luyên cũ trưóc đây với những ụ cát, những hình người làm điểm nhắm. Ở đây là một phòng kín rộng đầy những giây điên chằng chịt. Trên 10 khẩu súng đủ loại được đặt trước một phông hình của một dãy phố. Khi bật đèn và nhấn nút điều khiển trên phông hình xuất hiện những hình người ẩn núp hoặc chạy và các xạ thủ có thể nhắm bắn như ngoài chiến trường.<br /><br />Vị sĩ quan huấn luyện viên gỉai thích: <span style="font-style: italic;">”Với cách huấn luyện này vừa đỡ tốn kém, vừa chính xác hơn vì những phông cảnh có thể thay đổi cho thích hợp với những chiến trường khác nhau, và các học viên có thể bắn suốt ngày mà không phải tốn tiền đạn.”</span><br /><br />Quan khách đưọc dịp bắn thử các loại súng và nhắm vào chiến trường ảo trước mắt nhưng cũng tạo được cảm giác hồi hộp không ít.<br /><br />Cuộc viếng thăm bất ngờ của TT Obama<br /><br /><table width="226" align="right" border="0" cellpadding="0" cellspacing="9"><tbody><tr><td><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjsNUyqSTbT649XwXkVZopf9F5O440zohA5WYdV648szPPfWTs9k1RX2HQvqosk76l_mC1thYPqXFB9X5Fu1GlecofeGD_OvOCZIbiAlcLrW_Iyubbp2AV6mx8UnNm_5eVFjEL6-ORarK4/s1600/luong_xuan_viet_phong_van.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 269px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjsNUyqSTbT649XwXkVZopf9F5O440zohA5WYdV648szPPfWTs9k1RX2HQvqosk76l_mC1thYPqXFB9X5Fu1GlecofeGD_OvOCZIbiAlcLrW_Iyubbp2AV6mx8UnNm_5eVFjEL6-ORarK4/s400/luong_xuan_viet_phong_van.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5616096549057680130" border="0" /></a><div style="font-style: italic; color: rgb(102, 102, 102);" align="justify"><span style="font-size:85%;">Bà Nancy Bùi đang phỏng vấn Đại tá Lưong Xuân Việt cho Chương trình 500 Lịch Sử Phỏng Vấn, tại văn phòng làm việc của ông trong căn cứ Fort Campbell, Kentucky.</span></div></td></tr></tbody></table>Ngoài những trường huấn huyện vừa kể, Sư đoàn 101 còn có nhiều lực lượng đặc biệt khác được huấn luyện và đặt căn cứ tại đây, như Biệt đội trực thăng đặc nhiệm 160 mà những phi công lái 4 chiếc trực thăng xâm nhập vào Parkistan đến tận bản doanh của Bin Laden đang trốn đóng, bắn chết và mang xác cuả tên trùm khủng bố làm rung động cả thế giới cũng trực thuộc Sư đoàn 101.<br />Biệt đội 160 từng tham chiến tại Việt Nam, và có căn cứ tại đây. Do đó, chương trình lễ mừng Ngày Người Á Châu Thái Bình Dương hôm nay bị thay đổi đôi chút để đón tiếp TT Obama đến thăm viếng và vinh danh những phi công và đội đặc nhiệm cuả họ và sư đòan 101.<br /><br />Trong hơn 2 giờ đồng hồ thăm một vòng doanh trại, với sự tiếp đãi ân cần của Thiếu tá Platt và các binh sĩ trong ban tiếp tân, phái đoàn đã học hỏi rất nhiều về sinh hoạt và đới sống của người lính Mỹ tác chiến. Người tham dự như cảm thấy gần gũi, thông cảm và mang ơn nhiều hơn những người lính và gia đình họ. Sự chu đáo này cũng nói lên tình cảm đặc biệt mà vị Chỉ huy trưởng và binh sĩ tại đây dành cho phái đoàn người Mỹ gốc Việt.<br /><br />VAHF và người Việt Nashville vinh danh Đại tá Việt<br /><br />Khoảng gần trưa, trong không khí trong lành, với mùi thơm thoang thoảng của hoa xồi đỏ, và ánh nắng dịu dàng của những ngày đầu hè, khoảng trên 500 quân nhân và quan khách Mỹ Việt đã tụ tập trước phòng khánh tiết của Lữ Đoàn 3 nhảy dù để tham dự Lễ Vinh danh Lữ đoàn trưởng người Mỹ gốc Việt đầu tiên và duy nhất thuộc binh chủng tác chiến Hoa kỳ, Đại tá Lương Xuân Việt.<br /><br />Để đáp lễ các sắc dân khác với y phục cổ truyền và để buổi lễ thêm phần long trọng, tất cả các phụ nữ người Mỹ gốc Việt có mặt đã mặc áo dài đầy màu sắc tươi vui, một số đội những vành khăn xếp rộng vành trông thật đẹp mắt . Riêng phóng viên Trọng Thắng đã khăn đóng, áo the, quần trắng thật long trọng.<br /><br />Trong bài diễn văn ngắn nhưng cảm động, bà Nancy Bùi, hội Trưởng Hội VAHF đã phát biểu:<br /><span style="font-style: italic;">“Đúng 36 năm, 6 ngày trước đây, ngày 30 tháng 4, 1975, Sài gòn thất thủ. Chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Cuộc chiến đã cướp mất trên 58.000 chiến binh Hoa kỳ, hơn 500,000 chiến binh Nam Việt Nam và trên một triệu người dân Việt. Đó là một cuộc chiến gây nhiều tranh cãi nhất trong thế kỷ thứ 20. Nhưng khi hoà bình đến, cuộc sống của người dân Việt Nam không khá gì hơn bởi vì kẻ ác đã chiến thắng …. và nhiều người đã phải nghĩ rằng hàng triệu người Mỹ và Nam Việt Nam đã chết uổng phí. Nhưng nhờ lòng quảng đại của dân và chính quyền Mỹ đã đón nhận người Việt tị nạn và từ đó, cuộc chiến tranh Việt Nam cũng có một kết quả tốt đẹp. Đó là cộng đồng người Mỹ gốc Việt…”</span>.<br /><br />Bà Nancy Bùi sau đó đã ca ngợi những nỗ lực của người Mỹ gốc Việt đã mau chóng ổn định đời sống và trở thành một sắc dân có nhiều những đóng góp tích cực nhất vào sự phồn vinh của Hoa Kỳ. Và Đại tá Lương Xuân Việt là một thí dụ điển hình.<br /><br />Bà cũng thay mặt hội VAHF. chân thành cám ơn sự hy sinh gian khổ của người lính Hoa Kỳ và tri ơn gia đình những người đã bỏ mình cho tự do và dân chủ trên toàn thế giới. Bà mong một ngày nào đó tự do, dân chủ sẽ soi rọi đến trên 85 triệu dân VN.<br /><br />Trong bộ quân phục tác chiến, Đại tá Lương Xuân Việt đáp từ bằng những lời ca tụng sự hy sinh của quân lực VNCH.<br /><br />Theo ông, cuộc chiến VN tuy đã có kết quả không tốt, nhưng nó đã để lại những bài học quý giá mà ông và binh sĩ của ông được học hỏi để rút tỉa kinh nghiệm. Ông cũng ca tụng và tri ơn những người lính tác chiến của sư đoàn 101..<br /><br /><table width="226" align="left" border="0" cellpadding="0" cellspacing="9"><tbody><tr><td><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjrvyRWqFewMdLtLCYdzDiNF86DPXKVRiSs9EcUiREHYQwi_SGJ7Gk76UjZssnfFUkirRxnsp7fGBEFkwfDTbuIEKzMReOOSNE3eHeJG4jM1FLl2xkIfLFvUh2zRJS1AyAKaEojbgzsajo/s1600/luong_xuan_viet_chay_bo.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 286px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjrvyRWqFewMdLtLCYdzDiNF86DPXKVRiSs9EcUiREHYQwi_SGJ7Gk76UjZssnfFUkirRxnsp7fGBEFkwfDTbuIEKzMReOOSNE3eHeJG4jM1FLl2xkIfLFvUh2zRJS1AyAKaEojbgzsajo/s400/luong_xuan_viet_chay_bo.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5616096572097731282" border="0" /></a><div style="font-style: italic; color: rgb(102, 102, 102);" align="justify"><span style="font-size:85%;">Đại tá Lương Xuân Việt chạy dẫn đầu đoàn quân trên 3,000 binh sĩ thuộc Lữ đoàn 3 Nhảy dù để chạy bộ 5 dậm Anh, trên những con dốc, ngọn đồi của căn cứ Fort Campbell trong buổi sáng còn mờ sương, chào mừng ngày của Người Mỹ gốc Châu Á Thái Bình Dương vào đầu tháng 5, 2011 vừa qua.</span></div></td></tr></tbody></table>Ông phát biểu: <span style="font-style: italic;">”Tất cả những gì tôi có là nhờ sự làm việc và đóng góp của tất cả các bạn. Nếu không có các bạn, tôi sẽ chẳng có gì hết..”</span><br /><br />Linh mục Peter Châu Đỗ đã cùng với bà Nancy Bùi trao tặng tấm plaque của hôi VAHF vinh danh Đại Tá Lương Xuân Việt về những thành quả xuất sắc làm rạng danh người Mỹ gốc Việt trong việc chiến đấu bảo vệ tự do và dân chủ tại Hoa kỳ và trên toàn thế giới.<br /><br />Người điều khiển lễ vinh danh là ca sĩ Thái Hà, thành viên của Ban Quản trị hội VAHF, đã cùng với phóng viên Trọng Thắng của đài truyền hình Viet Face TV, bác sĩ Nguyễn Thu Thảo thuộc truyền hình VNA tại California, sau đó đã trao tặng hoa cho bà Lương Mỹ Kim, phu nhân của Đại tá Việt để tỏ lòng ngưỡng mộ và tri ân về những hy sinh của người vợ và gia đình của những quân nhân Hoa kỳ. Buổi lễ được kết thúc bằng một bữa ăn trưa tại phòng khánh tiết của doanh trại.<br /><br />Từ ước vọng của người cha tới ước mơ của vị Đại tá trẻ và sáng giá bậc nhất nhât của quân đội Hoa kỳ<br /><br />Theo dư luận am tường về quân đội Hoa kỳ, Đại tá Lương Xuân Việt, người vừa về từ chiến trường A Phú Hãn cùng với 9,000 quân của ông, là một trong những Đai tá trẻ, sáng giá, với nhiều chiến công hiển hách từ hai chiến trường Iraq và A Phu Hãn.<br /><br />Sau khi về từ chiến trường Iraq năm 2009, ông đã từ là Trung tá Tiểu đòan trưởng được phong chức Đại tá Lữ đoàn trưởng và được gửi đi chiến trường A Phú Hãn, ông lên nhanh đến độ không có thời gian để đi học khoá huấn luyện sĩ quan cao cấp.<br /><br />Với thành tích cầm quân tại chiến trường gần 13 tháng với bao chiến công mà số quân tổn thất chỉ có 17 người. Tháng 6 sắp tới, ông sẽ được đưa về Đại học Standford để học về kỹ năng ngoại giao và lãnh đạo trong một năm. Nhiều người tiên đoán rằng sau khoá học này ông có nhiều cơ hội được lên tướng để trở thành vị Tướng người Mỹ gốc Việt đầu tiên trong lịch sử Hoa kỳ.<br /><br />Xuất thân từ gia đình binh nghiệp, Cha ông là Thiếu tá Lương Xuân Dương, thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến của Quân lực VNCH từng làm sĩ quan tuỳ viên của Trung Tướng Lê Nguyên Khang.<br /><br />Sau 1975, cha ông và gia đình gồm một vợ và 8 người con, 7 gái và Đại tá Lương Xuân Việt là con trai duy nhất trong gia đình. Mẹ ông là bà Kathy Lương, hiện bà đang sống tại vùng ngoại ô Los Angeles, nơi mà gia đình bà đã đến Mỹ lập nghiệp trên 36 năm qua.<br /><br />Trong cuộc phỏng vấn gần hai tiếng đồng hồ dành cho chương trình 500 Lịch Sử Phỏng Vấn của hội VAHF, vị Đại tá ngưòi Mỹ gốc Việt đã nghẹn lời khi ông tâm sự về người cha:<br /><br /><span style="font-style: italic;">“Cha tôi thường không biểu lộ chuyện buồn, nhất là với con cái. Nhưng ông không thể giấu được những dằn vặt với ý nghĩ vì sao ông không ở lại để tiếp tục chiến đấu với binh sĩ của ông? Ông thường khuyên bảo tôi nên chọn binh nghiệp để phục vụ vì rất có thể một ngày nào đó tôi có thể đem lại lợi ích cho quê hương Việt Nam.</span><br /><br /><span style="font-style: italic;">Khi còn nhỏ, chị cũng biết sống trong khu ngoại ô Los Angeles, trẻ con chúng tôi không tránh nổi những trận ấu đả. Khi tôi còn nhỏ được cha mẹ tôi cho học võ Vovinam nên việc rèn luyện thân thể là chuyện hàng ngày đối với tôi, và tôi không bao giờ sợ khi cần phải dùng sức để tự bảo vệ . Nhờ đó mà việc chọn binh nghiệp cũng rất thích hợp với tôi. Lớn lên chút nữa khi vào Đại học, tôi cố gắng học và đậu điểm rất cao tại Đại học University of Southern California (USC), nên được chọn vào trường sĩ quan không khó khăn.</span><br /><br /><span style="font-style: italic;">Sau khi tôi ra trường, phục vụ trong ngành tác chiến. Khi tôi lên tới Đại úy thì Ba tôi mất. Tôi nhớ mãi ngày ba tôi tham dự lễ gắn lon Đại úy của tôi, mắt cha tôi sáng lên với niềm vui và hãnh diện. Cha tôi mất vì bệnh ung thư khi ông chưa đầy 65 tuổi. Tôi ước gì ông còn sống đến hôm nay và lâu hơn nữa để ông được nhìn thấy sự thành đạt của tôi! ”</span><br /><br />Niềm ước mơ lớn nhất cho Việt Nam<br /><br />Khi được hỏi ông mơ ước gì cho đất nước Việt Nam? Vị Đại tá trẻ đã trả lời thật ngắn gọn như ông đã nung nấu trong sự suy nghĩ của ông từ bao lâu:<span style="font-style: italic;"> ”Điều ước mơ tôi mong muốn nhất là cho đất nước Việt Nam, một ngày nào đó, sẽ có tự do và dân chủ thực sự. Tôi cũng ước cho toàn dân Việt có cơm no, manh áo, và tất cả những trẻ em có cơ hội cắp sách tới trường.”</span><br /><br />Trên chiếc bàn thấp và nhỏ giữa phòng làm việc của Đại tá Việt, những cuốn binh sử như đưọc giữ trong tầm tay với của vị Chỉ huy trưởng ở đây. Có những binh sử của Hoa kỳ và của nhiều quốc gia khác trên thế giới. Những cuốn hồi ký của các danh tướng và có cả những binh sử của Việt Nam Cộng Hoà.<br /><br />Đại tá Lương Xuân Việt cho biết ông đọc và nghiên cứu rất nhiều. Sự học hỏi này giúp cho ông rút tỉa được kinh nghiệm của những người đi trước.<br /><br />Ông cho biết một số tài liệu của các tướng Việt Nam Cộng Hoà đã viết như Tướng Ngô Quang Trưởng với chiến thuật du kích chiến hay Tướng Nguyễn Duy Hinh hiện còn sống tại vùng Hoa Thịnh Đốn viết về kinh nghiệm cuộc hành quân Lam Sơn 719 năm 1971 cũng là những binh sử gối đầu của ông. Ông cho biết khi cầm quân, dù mất một người cũng là nhiều, nên ông chú tâm vào các chiến thuật đánh sao cho kết quả nhưng không hao tổn xương máu của binh sĩ mới là chiến thắng toàn diện.<br /><br />Chính vì thế mà trong gần 13 tháng điều khiển trên 9,000 quân tại chiến trường A Phú Hãn, với nhiều chiến công hiền hách, Đại tá Lương Xuân Việt chỉ mất có 17 binh sĩ. Ngay trong tuần lễ đầu sau khi về tới Mỹ, Đại tá Việt đã được Bộ Quốc phòng Pentagon mời lên để tường trình về chiến trận, đặc biệt về cách cầm quân thật hiệu qủa của ông.<br /><br />Một chỉ huy trưởng nghiêm minh nhưng đầy lòng nhân ái.<br /><br />Đại tá Lương Xuân Việt còn được sự kính phục của binh sĩ dưới quyền ông. Đi đến đâu chúng tôi cũng nghe những lời nói về ông với đầy cảm mến:<span style="font-style: italic;"> “Ông ấy là một nhà lãnh đạo giỏi, ông ấy thương binh sĩ và làm việc rất nhiều để hỗ trợ binh sĩ, ông ấy cư xử với chúng tôi như anh em,..”</span>.<br /><br />Riêng với Thiếu tá Platt, tuỳ viên báo chí của Lữ đoàn thì không tiếc lời khen ngợi:<br /><br /><span style="font-style: italic;">”Đại tá Việt rất nghiêm, nhưng ông ấy sống chết với binh sĩ. Chúng tôi chứng kiến cảnh Đại tá đau buồn khi ông nghe tin binh sĩ tử nạn. Ông lúc nào cũng làm hết sức, ngoài cả những gì ông ấy cần làm như tìm mọi cách đến thăm những binh sĩ bị thương hoặc hy sinh, mặc dù nhiều lúc ông phải dùng trực thăng, đi đến những vùng nguy hiểm nhưng đối với ông sự có mặt của người chỉ huy trưởng trong những lúc sống còn của người binh sĩ dưới quyền ông là một điều tối quan trọng. Tôi đã từng làm việc với nhiều Đại tá chỉ huy trưởng khác, nhưng khi làm việc với Đại tá Lương, tôi biết là tôi làm việc nhiều hơn rất nhiều nhưng tôi lại rất vui. Ông ta là một nhà lãnh đạo tài ba, và đức độ”</span><br /><br />Nhưng tất cả những điều vừa kể trên chỉ là một phần của Đại tá Lương Xuân Việt, khi người phỏng vấn hỏi về gia đình thì gương mặt ông sáng lên và nói về người vợ của ông, bà Lương Mỹ Kim: bằng những lời thiết tha, chân tình:<br /><br /><span style="font-style: italic;">”Kim là tất cả của đời tôi. Cô ấy thay tôi làm cha khi tôi phải ra chiến trường, cô ấy an ủi và chia sẻ với tôi trong những lúc vui buồn hoặc khó khăn. Chị biết mỗi khi có một binh sĩ phải hy sinh, tôi còn ngoài chiến trường thì Kim thay tôi đến để an ủi gia đình họ, trong khi tôi biết chính trong lòng của Kim cũng đang bối rối và lo sợ cho tôi và những bấp bênh của một gia đình có ngưòi chồng trong ngành tác chiến. Vì luật lệ trong quân đội khiến chúng tôi phải dời đổi chỗ ở liên tục. Ít có nơi tôi ở đưọc lâu quá 3 năm nên Kim và các cháu cũng phải thay đổi trường học, môi trường sống liên tục. Tôi không thể làm tất cả những điều đã và đang làm nếu không có sự cộng tác của Kim.”</span><br /><br />Và một mơ ước khác cho 3 người con là Lưong Thị Thu Diễm Asley, 16 tuổi lớp 11, Lương Xuân Huy Brandon, 14 tuổi, lớp 9, và Lương Xuân Quốc Justin 10 tuổi, lớp 5 sẽ chọn binh nghiêp.<br /><br />Đại tá Việt thổ lộ:<span style="font-style: italic;"> “Cháu gái lớn muốn học luật và sẽ chọn làm việc cho quân đội. Cháu trai thứ hai đang chờ đợi vào trường sĩ quan, cháu út thì còn nhỏ nhưng cũng đã và đang tìm hiểu. Tôi luôn khuyến khích các cháu, vì tôi mghĩ rằng: quân đội Hoa kỳ là một trong những môi trường phục vụ tốt nhất”</span>.<br /><br />Bài học từ chiến tranh VN<br /><br />Tối hôm trước. Đại tá Việt và phu nhân là chị Kim đã có nhã ý mời chúng tôi đến thăm tư gia của họ trong căn cứ Fort Campbell. Căn biệt thự nhỏ xinh xắn trên đỉnh một ngọn một con đồi thấp là mái ấm cuả Đại tá Việt và gia đình.<br /><br />Trước nhà, phiá trái là cổng chào màu đỏ, nhỏ làm bằng gỗ theo hình cổng chào Torii của người Nhật; gần giống cổng tam quan của người Việt, phía trái trồng cây kiểng và hoa rực rỡ. Bên trong căn nhà, vật dụng được trưng bày tươm tất nhưng giản dị của một gia đình trung lưu Mỹ.<br /><br />Tiếp chúng tôi, Đại tá Việt ngồi chiếc ghế sa lông chính giữa, bên phải là Đại tá Paul Sarat, lo về hành chánh, tài chánh. Bên trái là Thiếu tá Matt Leslie, trưởng Ban hành quân, có vợ Việt Nam, chị Linda Leslie. Họ nói chuyện với nhau thân mật nhưng tương kính.<br /><br />Chị Kim lo việc tiếp khách và chỉ có chị Linda đến chơi tiếp tay, mà không hề thấy bóng của người phục dịch. Chị Kim cho biết sư đoàn có đơn vị huấn luyện và hướng dẫn các gia đình binh sĩ cách sống tự lập. Các bà được dạy cách thay bánh xe, thay đèn, sửa những vật dụng giản dị trong nhà. Đời sống của gia đình một vị Đại tá trong quân đội Hoa kỳ thật đơn giản và tự lập.<br /><br />Cuộc chiến tranh đã qua đi 36 năm, đến thăm viếng căn cứ Fort Campbell, doanh trại của Sư đoàn tinh nhuệ nhất để thấy cuộc lột xác hầu như hoàn toàn của quân đội Hoa kỳ sau bài học từ chiến tranh Việt Nam.<br /><br />Họ thay đổi từ chiến cụ, kỹ thuật tác chiến đến tinh thần và lối sống và làm việc của binh sĩ Hoa kỳ. Họ không còn là một tập thể ô hợp của những người lính bị động viên.<br /><br />Hôm nay, người lính và đặc biệt là những vị sĩ quan chỉ huy, họ là những nhà binh chuyên nghiệp với kỷ luật nghiêm minh, với kỹ năng kỹ thuật nhuần nhuyễn. Ngoài việc đánh trận, ho cũng được huấn luyện kỹ năng nghề nghiệp, và đặc biệt tư cách và lối ứng xử của họ nói lên được tinh thần kỷ luật và trách nhiệm nghiệm minh nhưng lại đầy tinh người của một đoàn quân tinh nhuệ nhất trên thế giới, trong đó có nhiều vị chỉ huy cũng như gần 20 ngàn binh sĩ người Mỹ gốc Việt các cấp. Đó cũng chính là niềm an ủi và hãnh diện của cộng đồng người Mỹ gốc Việt của chúng ta.<br />Người Mỹ tốn hơn 58 ngàn sinh mạng và nhiều tỷ bạc cho chiến tranh VN. Cuối cùng họ đã học được bài học của họ để xây dựng một quân đội hùng mạnh gần như hoàn hảo vào bậc nhất trên thế giới mà không một quân đội nào trên thế giới muốn đối đầu.<br /><br />Miền Nam VN tự do của chúng ta đã tổn thất hàng triệu người, thất thoát tiền rừng, bạc biển cho cuộc chiến. Nhưng đau thương nhất là chúng ta mất cả mảnh đất tự do của quê hương. Chúng ta đã học được bài học gì sau hơn 36 năm?<br /><br /><span style="font-size:85%;"><span style="font-style: italic; color: rgb(51, 51, 51);">(Bài của Triều Giang. Hình của Ban Báo Chí Lữ đoàn 3 Nhảy Dù, sư đoàn 101 tác chiến và Bác sĩ Nguyễn Thu Thảo...)</span></span><br /><br /><br /></div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-88913506485748686272011-03-30T15:51:00.001+11:002011-03-30T15:57:17.289+11:00Con sói già cô đơn - Phan Lạc Phúc<center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjtjVzOnrgzksfc1I6o74atba464mZp4ZFTjonXvtcE8ySW4E03-446Jjs7YogByNPZNqT2HD0DCJYWI9VsFe127u9OSipZdUpACCBuY3o5DasYWKkC3OKH1trWoleJQC46hHeWHqP6Bsc/s1600/mauthan_tuongloan.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 297px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjtjVzOnrgzksfc1I6o74atba464mZp4ZFTjonXvtcE8ySW4E03-446Jjs7YogByNPZNqT2HD0DCJYWI9VsFe127u9OSipZdUpACCBuY3o5DasYWKkC3OKH1trWoleJQC46hHeWHqP6Bsc/s400/mauthan_tuongloan.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5589726177832386226" border="0" /></a><br /></center><br /><span style="font-size:85%;"><span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(51, 51, 51);">Phan Lạc Phúc</span><span style="font-style: italic; color: rgb(51, 51, 51);"><br />(Ký giả Lô Răng)</span></span><br /><br /><div style="text-align: justify;">Cổ nhân có câu “Cái quan định luận”, có nghĩa rằng hãy đậy nắp áo quan cho một người nào đó, rồi sau mới có thể nhận định rốt ráo về con người ấy được. Nhưng có trường hợp đậy nắp áo quan rồi mà dư luận vẫn phân chia, kẻ khen người chê, không biết nghiêng về bên nào cho phải. Đó là trường hợp nằm xuống của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, người vừa tạ thế trung tuần tháng bảy qua ở Mỹ.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhvm9AZN5No-arsOr6KkTaxR0Q22QumFMiHGHAc6x8RAHCUSbNGebVFX0SNKQqEhlCqlsunO0-PaCMUELnRkfAWej6FsOlsiAFcqEWPHOW4qmmA2UnMDIz0lPBgdIGoYTNShc5_3Wcfnsk/s1600/GreyWolf.jpeg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 350px; height: 280px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhvm9AZN5No-arsOr6KkTaxR0Q22QumFMiHGHAc6x8RAHCUSbNGebVFX0SNKQqEhlCqlsunO0-PaCMUELnRkfAWej6FsOlsiAFcqEWPHOW4qmmA2UnMDIz0lPBgdIGoYTNShc5_3Wcfnsk/s400/GreyWolf.jpeg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5589726183469863010" align="right" border="0" hspace="8" /></a>Khi ông còn sinh tiền, nói về ông có vẻ như tiếng chê nhiều hơn là lời khen. Ở trong nước giữa thập niên 60, đang là Tư lệnh phó Không Quân, ông nhảy sang làm Giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội, kiêm Giám đốc Trung Ương Tình Báo. Ông được coi như cánh tay mặt của ông Nguyễn Cao Kỳ lúc đó làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ tướng), còn ông Loan làm “xếp chúa” của ngành an ninh trật tự. Đây là thời kỳ rất nhiều biến động. Đệ Nhất Cộng Hòa vừa được xóa đi, thể chế mới chưa hình thành, tranh chấp hiện ra ở mọi nơi, mọi lúc. Đây là thời gian kỷ lục về đảo chánh, về xuống đường, về bất ổn.<br /><br />Tướng này loại tướng kia, tôn giáo đụng chạm, sinh viên học sinh biểu tình đập phá, Phật giáo đưa bàn thờ xuống đường .v.v... Chưa có lúc nào mà miền Nam lại “loạn” như thế. Người mạnh tay dẹp những bất ổn ấy là ông Nguyễn Ngọc Loan. Sự mạnh tay của ông gồm có: “cảnh sát dã chiến dàn chào, có hơi cay, có dùi cui, có việc “nhúp” những phần tử “trâu đánh”, có đổ máu, có nhà tù”. Ông Loan được gọi là độc tài, quân phiệt, phản cách mạng, là tay sai đế quốc ... Nhưng ít có ai nghĩ là ông Nguyễn Ngọc Loan đã đóng một vai trò tích cực trong việc ổn định tình thế, làm nền xây dựng cho một thể chế mới hợp hiến, hợp pháp Đệ Nhị Cộng Hòa.<br /><br /><table align="left" border="0" cellpadding="0" cellspacing="9" width="226"><tbody><tr><td><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEieTvqKFrtLmJNMbGnvVmzUJBwOlf9VubH-BveQGUgX5hF0PTWFb6Em24c5RgX4mm1RowTOqbdBvMAjn6bWfbu6JI81ecPhXlqm_DWl6btRyQwNEgbiQ4KieRRsdECYDi7llhOQN2zL_ZY/s1600/damtanggiading_TrungTa.NguyenTuan.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 200px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEieTvqKFrtLmJNMbGnvVmzUJBwOlf9VubH-BveQGUgX5hF0PTWFb6Em24c5RgX4mm1RowTOqbdBvMAjn6bWfbu6JI81ecPhXlqm_DWl6btRyQwNEgbiQ4KieRRsdECYDi7llhOQN2zL_ZY/s400/damtanggiading_TrungTa.NguyenTuan.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5589727713751380018" border="0" /></a><div style="font-style: italic; color: rgb(102, 102, 102);" align=""><span style="font-size:85%;">Đám tang cả gia đình Trung Tá Nguyễn Tuấn bị tên đặc công Lém giết cùng một lần. Ảnh "Vietnam, A Chronicle of the War", Black Dog & Leventhal Publishers, Inc. 2003.</span></div></td></tr></tbody></table>Thời kỳ ấy ông được thăng Chuẩn Tướng. Nhưng người ta ít khi gọi ông theo cấp bậc, mà người ta quen gọi ông là “Sáu Lèo”. “Sáu” ở đây là quan sáu theo danh xưng bình dân thời Pháp gọi các võ quan, mỗi một vạch trên vai là một cấp bậc (thiếu úy một vạch là ông một, trung úy hai vạch là ông hai ...). Chỉ có năm vạch là cùng (đại tá), tướng là đeo sao rồi. Nhưng dân gọi quan sáu là gọi theo hình tượng cũng như dân ngoài Bắc ngày xưa gọi dinh quan Toàn quyền là dinh Ông Bảy (còn trên ông Sáu một bực). Nhưng sau chữ Sáu của ông Loan còn thêm tĩnh từ “Lèo”. Không biết từ này xuất xứ từ đâu, nhưng khi nó đi vào ngôn ngữ dân gian thì nó mang một ý niệm bỉ thử, dèm pha, tiêu cực. Tiền “lèo” là tiền vô giá trị, hay là tiền chỉ có trong tưởng tượng. Hứa “lèo” là hứa xuông, hứa hão, hứa mà không thực hiện bao giờ. Vậy “Sáu Lèo” có nghĩa là một ông quan sáu vô giá trị hay là một ông tướng hữu danh vô thực hay sao?<br /><br />Sở dĩ cái danh xưng này đứng vững một phần là vì cái bề ngoài luộm thuộm của ông Loan. Ông rất ít khi mặc quân phục, mũ mãng cân đai, nghênh ngang giàn giá. Ông thường mặc quần áo “trây di” xộc xệch, không đeo lon lá gì, chân đi dép cao su lẹp xẹp. Ra ngoài thì ông ngồi xe Jeep bình thường, không có mang cờ quạt mà cũng không có xe mở đường, mô tô bảo vệ. Ông nhiều khi còn đi xe “mobilet” lạch xạch đi làm. Có khi ông còn một tay cầm chai lade, một tay cầm súng M16 vừa đi vừa ực lade, vừa chửi thề loạn xạ. Bề ngoài của ông tướng Loan đúng là xập xệ, là “lèo”, nhưng việc làm của ông thì lại không “lèo” một chút nào.<br /><br />Một anh em kỳ cựu ở Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia có kể lại rằng: “Thời ông Loan, không có câu nệ lễ nghi quân cách, không nề hà hệ thống quân giai, mà ông cũng không xía vào việc của các phòng, sở, nhưng giao việc gì là phải làm cho đúng, cho xong”. Cảnh sát thời ông Loan không đơn thuần làm công tác trị an, mà còn là một lực lượng xung kích hữu hiệu. Vấn đề nội an, phản gián cũng được nâng lên một mức vì ông nắm trong tay cùng một lúc Nha An Ninh Quân Đội và Cơ Quan Trung Ương Tình Báo, nên công tác nó quy về một mối, nhịp nhàng hiệu quả hơn. Có bữa một trực thăng đột ngột đậu xuống sân cờ Tổng Nha. Một số cán bộ phản gián đi xuống cùng một người bị bịt mắt. Nghe anh em nói lại đó là một cán bộ Việt Cộng cấp cao, bị bắt trên đường đi gặp một nhân viên “Xịa” gộc. Có lẽ ông Loan không muốn đồng minh lớn qua mặt mình trong địa hạt này, nên ông mới hốt tay trên, bắt cán bộ VC kia về Tổng Nha tra cứu. Ông “Sáu Lèo” không được các đoàn thể “Trâu Đánh”, các nhà chính khách “dấn thân” ủng hộ, mà đồng minh lớn Huê Kỳ cũng không có thiện cảm với ông.<br /><br />Khi giải kết ở Việt Nam bắt đầu từ cuộc tấn công Mậu Thân, người Mỹ qua các phương tiện truyền thông của họ đưa ra những lời lẽ, những hình ảnh làm “nản lòng chiến sĩ” cũng như làm cho nhân dân Mỹ nghi ngờ, chán ghét chiến tranh Việt Nam. Một tờ báo Mỹ, tờ Newsweek gọi quân đội miền Nam là thỏ đế, quân đội Việt cộng là sư tử. Trong cuộc tấn công Mậu Thân khi phóng viên Eddie Adams chụp được tấm hình ông tướng Loan tự tay cầm súng lục bắn vào đầu một tù binh Việt Cộng bị trói, thì ông tướng Loan từ đó đã trở nên một biểu tượng của sự dã man tàn bạo. Cuộc chiến của nhân dân miền Nam, qua hình ảnh của ông Loan cũng trở nên phi nghĩa. Truyền thông Mỹ đã tóm được một cliché đắc ý. Nhà báo ảnh Eddie Adams cũng nhờ đó kiếm được một cái giải Pulitzer. Hình ảnh ấy cũng như cuốn phim ghi lại cuộc xử bắn tại chỗ này là sự thực, nhưng tiếc thay chỉ là sự thực một nửa. Người ta không ghi lại hay là không cho biết vì sao ông tướng Loan lại làm như thế.<br /><br />Là một người chịu trách nhiệm về trị an thủ đô Sàigòn, ông Loan biết rằng chiến thuật Việt Cộng là tấn công và nổi dậy. “Quân đội giải phóng” đi tới đâu là cán bộ nằm vùng nơi đó nổi lên, diệt “ác ôn” hướng dẫn quân đội chiếm đóng các vị trí hiểm yếu, tiếp tế lương thực và tiến hành tổ chức ủy ban. Đầu mối của cuộc tấn công này là cán bộ nằm vùng, vì không có lực lượng này, quân tấn công sẽ như rắn mất đầu.<br /><br />Cho nên việc chính của lực lượng cảnh sát Sàigòn là diệt nằm vùng. Trong một cuộc hành quân tảo thanh, lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến bắt được một cán bộ Việt Cộng. Tên này vừa diệt “ác ôn”, hạ sát cả một gia đình sỹ quan cảnh sát thì bị bắt. Y đang thay chiếc áo đẫm máu bằng chiếc áo sọc rằn. Cảnh sát dã chiến đưa đến cho tướng Loan “hung thủ” cùng chiếc áo đẫm máu. Ông Loan liền cho mời báo chí tới thực hiện vụ hành quyết cảnh cáo “nằm vùng mà nổi lên là bị bắn không tha”. Ông nghĩ rằng “sát nhất nhân, vạn nhân cụ” và cũng để trả thù cho thuộc cấp của ông và gia đình vừa bị giết thảm thương.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhcWuk8V5JsBtjtqHleTds7HirFnqSI5NhqSCbqyRRicmTd78v_E6YEyTNn345Lfg8IzpKJbqXHmHmZpVTfPbyIQ8LjGaxM2BAw7Vczk450wEtIQJVxhMOKUIMEry4L-bZvO_kjPxr73nE/s1600/nguyenvanlem.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 352px; height: 282px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhcWuk8V5JsBtjtqHleTds7HirFnqSI5NhqSCbqyRRicmTd78v_E6YEyTNn345Lfg8IzpKJbqXHmHmZpVTfPbyIQ8LjGaxM2BAw7Vczk450wEtIQJVxhMOKUIMEry4L-bZvO_kjPxr73nE/s400/nguyenvanlem.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5589726189550434818" align="left" border="0" hspace="8" /></a>Chiến tranh là như vậy, máu lại gọi máu. Truyền thông Mỹ chỉ chụp lại cảnh ông tướng Loan giơ tay bắn một tù binh bị trói, mà không cho biết trước đó tù binh Việt Cộng kia đã làm gì, và sau đó quân đội gọi là “giải phóng” kia đã hành xử như thế nào? Một số quân nhân “giải phóng” đã tàn sát cả nhà trung tá thiết giáp Nguyễn Tuấn, gồm tất cả 8 người trong đó có bà mẹ già đã 80 tuổi để hy vọng lấy được mật mã thiết giáp. Ỡ Huế, quân đội Việt Cộng không phải chỉ giết một người, một gia đình mà tàn sát hàng mấy nghìn người, lấp vội vàng trong những hố chôn tập thể, mà truyền thông Hoa Kỳ sau đó có nói gì đâu. Truyền thông báo chí Mỹ đã không trung thực trong việc tường trình cuộc chiến Việt Nam. Họ chỉ nói ra sự thực một nửa, sự thực nào có lợi cho họ. Nủa cái bánh mì thì vẫn là cái bánh mì, nhưng một nủa sự thực thì không còn là sự thực, hay là sự thực đã biến dạng đi.<br /><br /><table align="right" border="0" cellpadding="0" cellspacing="9" width="226"><tbody><tr><td><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhs4s_4PnXUzOKTH-WVhZe5fu3H3vo_1mg0qPLtVtwQAWDG80Cp1TYxDPSI9vL3Rrsn61_RpKNc8f7VnxegC5yDBq6lUIE3BISafbciPhJK33cTy-1SjkazlwQU0f203ZigZ6mMc86XVaI/s1600/thieutuongnguyenngocloan.jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 276px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhs4s_4PnXUzOKTH-WVhZe5fu3H3vo_1mg0qPLtVtwQAWDG80Cp1TYxDPSI9vL3Rrsn61_RpKNc8f7VnxegC5yDBq6lUIE3BISafbciPhJK33cTy-1SjkazlwQU0f203ZigZ6mMc86XVaI/s400/thieutuongnguyenngocloan.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5589727717610507826" border="0" /></a><div style="font-style: italic; color: rgb(102, 102, 102);" align=""><span style="font-size:85%;">Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan bị trọng thương trong trận tổng công kích đợt hai của VC vào Sài Gòn (05/05/1968)</span></div></td></tr></tbody></table>Ông tướng Nguyễn Ngọc Loan là “một người không giống ai”. Ông hành động theo những điều mà riêng ông cho là phải. Ông là người bất quy tắc (non conformist) cho nên ông được gọi là Sáu Lèo. Cho nên ông mới cho mời báo chí đến để trừng trị một tên Việt Cộng nằm vùng gây tội ác. Ông tưỏng như vậy là có lợi cho đại cuộc, nhưng không ngờ nó phản tác dụng khiến cho miền Nam bị tổn thương mà ông cũng thân bại danh liệt. Ông là tướng Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, việc của ông là ngồi mà ra lệnh, tại sao ông phải đích thân cầm quân đi dẹp loạn để đến nỗi ông bị mang tiếng xấu, bị bắn què chân phải đi nạng suốt đời.<br /><br />Nghe nói sau tháng tư đen, phải vất vả lắm ông mới vào được Mỹ. Người ta không muốn tiếp nhận một mẫu người “tàn bạo” như ông. Làm tướng mà không có trương mục, tiền bạc nào đáng kể. Phải mở một quán ăn kiếm sống. Như vậy mà vẫn không yên, có người còn đem chuyện cũ của ông ra bới móc. Vào khoảng đầu thập niên 80, nhà văn Huy Quang , tức Trung Tá không quân Vũ Đức Vinh cùng với Mai Thảo, Thanh Nam và một số anh em ra tờ Đất Mới ở Seatle. Sau khi tờ báo đứng vững, Đất Mới có ra thêm phụ trương bằng tiếng Anh để hy vọng thẩm thấu vào dư luận Mỹ. Nhân ngày kỷ niệm Mậu Thân, Huy Quang có phone đến tướng Nguyễn Ngọc Loan, để xem ông có cần phải điều trần điều chi với người đọc Hoa Kỳ. Tướng Loan trả lời, “Cảm ơn, tôi không có điều gì phải giải thích cả”. Ông sống trong im lặng. Ông tự tin trong niềm im lặng của ông.<br /><br />Từ lâu ông tướng Loan mắc bệnh trầm kha, và ông từ giã cõi đời vào trung tuần tháng 7 năm 1998 vừa qua. Biến cố Mậu Thân và tên tuổi ông tướng Nguyễn Ngọc Loan bỗng nhiên sống lại trong ký ức mọi người. “Cái quan định luận” nên nghĩ thế nào về ông Loan? Phóng viên ảnh Eddie Adams người chụp bức hình xử bắn được giảii Pulitzer đã đến gia đình ông xin lỗi. Khi được tin ông mất Eddie đã đích thân đến dự đám tang và nói: “Ông là một vị anh hùng. Cả nước Mỹ nên khóc thương ông mới phải, tôi không muốn nhìn thấy ông ra đi như thế này, người ta không hiểu gì về ông ấy”. (The guy was a hero, America should be crying. I hate to see him go this way - Without people knowing anything about him).<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg0TDKaxD3SNfgmvCwmbKv56YE2jY1phdJK1MHvjtC3smO_FIRgl5TInyjZyBS90ZuifVsbvIihb4jY-JqI7-tbcZg-MCCI-HJiokuaTYBP7sbF-t0eirb1txdbmBOApI9-29rEst5fCds/s1600/nguyenngocloan...jpg"><img style="cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 305px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg0TDKaxD3SNfgmvCwmbKv56YE2jY1phdJK1MHvjtC3smO_FIRgl5TInyjZyBS90ZuifVsbvIihb4jY-JqI7-tbcZg-MCCI-HJiokuaTYBP7sbF-t0eirb1txdbmBOApI9-29rEst5fCds/s400/nguyenngocloan...jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5589726175340297634" align="right" border="0" hspace="8" /></a>Tại sao Eddie Adams bây giờ mới nói? Ông Loan đã chết rồi. Nói trước khi ông mất có khi tên tuổi ông đỡ bị người đời đàm tiếu mà gia đình thân nhân ông cũng được ngẩng đầu. Nhưng giả thử ông tướng Loan còn sống không chắc ông đã cho Eddie Adams nói như thế đâu. Ông không cần giải thích với ai. Ông muốn nhấm nháp vết thương của ông trong im lặng. Ông là con sói già cô đơn và kiêu hãnh của A. de Vigny:<br /><br />“Gào khóc, kêu than đều hèn yếu - Hãy dũng cảm làm cho xong công việc lâu dài và nặng nhọc của ngươi, trên con đường mà số phận đã đặt định, rồi như ta, đau đớn, chết đi mà không nói một lời”.<br /><br />Crier, pleurer, gémir c’est également lâche,<br />Fais énergiquement ta longue et lourde tâche<br />Dans la voie où le sort a voulu t’appeler<br />Puis comme moi, souffre et meurt sans parler.<br />Alfred de Vigny<br /><br />Một dịp nào nếu tôi có dịp may đến viếng ông tướng Nguyễn Ngọc Loan tôi sẽ thắp hương, cúi đầu và khấn: “Hãy an nghỉ, con sói già cô đơn và kiêu hãnh. Những người lính thuần thành xin được nghiêng mình trước hương linh thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”.<br /><br /><div style="text-align: justify;"><span style="font-weight: bold;">Phan Lạc Phúc</span><br /></div><br /></div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-76558696341661476162011-02-07T16:23:00.002+11:002011-02-07T16:45:52.509+11:00BÌNH THUẬN NHỮNG THÁNG NGÀY KHÓ QUÊN - Huỳnh Văn Quý<div style="text-align: justify;"><span style="font-size:85%;"><span style="font-weight: bold; font-style: italic;">Huỳnh Văn Quý</span></span><br /><span style="font-size:85%;">Cựu Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 249/ĐP/TK Bình Thuận</span><br /><br />Cuộc chiến tuy đã kết thúc 36 năm, nhưng tâm tư của người lính trận đôi khi chợt nhớ về chiến trường xưa mà lòng vẫn thấy nghẹn ngào, uất hận và xót xa. Hối hận vì đồng minh đã phản bội, bỏ rơi, bán đứng, để ta thua một trận chiến bởi một kẻ thù không hơn về tài trí và khả năng chiến đấu. Chúng ta thua cuộc vì kẻ thù gian manh, lật lọng, xảo quyệt, dối trá và cũng từ đó xót xa cho thân phận của người chiến bại, phải chịu nhiều tủi nhục tù đày khổ ải trong các trại tù lao cải, cam chịu làm kẻ ly hương, viễn xứ khắp nơi trên thế giới, bỏ lại quê hương, họ hàng thân thuộc, mồ mả tổ tiên, cùng bỏ lại bao nhiêu chiến hữu của mình đang khốn khổ, quằn quại dưới gông cùm Cộng sản còn ở lại quê nhà.<br /><br /> Ðại hội Ân Tình lần thứ 5 của Bình Thuận, sẽ được tổ chức tại nhà hàng Paracel Seafood Nam California USA, vào chiều Chủ Nhật 26/6/2011 với chủ đề <span style="font-style: italic;">“Tình Chiến Hữu“</span> và<span style="font-style: italic;"> “Tình Quê Hương“</span> có nhã ý nhắc nhở nhau dù ở phương trời nào, hoàn cảnh nào chúng ta vẫn phải luôn nhớ tình đồng đội như ngày nào còn đang tại ngũ.<br /><br /> Ðại hội cũng tạo một cơ hội để đồng hương hội ngộ tâm tình, cùng nhau thắp một nén hương tưởng niệm đồng bào và chiến hữu đã hy sinh trong cuộc chiến chính nghĩa và cùng nhau quyên góp chút quà tình nghĩa để gởi về sưởi ấm cho các anh em thương phế binh, các chị quả phụ tại quê nhà.<br /><br /> Cũng trong tinh thần đó, hôm nay tôi muốn ghi lại đôi dòng về những kỷ niệm trong chặng đường mà các chiến hữu năm nào đã cùng tôi sống và chiến đấu tại Bình Thuận, chịu dãi nắng dầm mưa, tham dự bao nhiêu cuộc hành quân diệt địch, trải dài khắp bảy Quận từ Nam Bình Thuận ra Bắc Bình Thuận, qua các mật khu Kim Bình, Tà Cú, Ba Hòn (Quận Hàm Thuận) về Tam Giác Sắt, Ðăng Gia, Núi Bành, Núi Kính (Thiện Giáo) qua mật Khu Lê Hồng Phong, Bàu Me, Bàu Tàn, Bàu Trắng, Hòn Rơm (Hải Long) vào tận căn cứ Nam Sơn, Mây Tàu, Sông Mao, ra Vĩnh Hảo, Núi Nhọn, núi Ðá Chẹt Cà Ná (Tuy Phong). Cho đến các cuộc Hành Quân Bình Ðịnh an ninh bảo vệ lãnh thổ Xã Ấp, giữ đồn bót và trục lộ giao thông trên QL1. Những ngày nắng cháy đầy cát bụi trên Nông Trường Sao Ðỏ tại Bình Tú. Những giờ phút vào sinh ra tử trong Tết Mậu Thân ở đồn Trinh Tường hoặc trong Thị xã Phan Thiết cho đến trận tái chiếm lại Xã Phú Long vào những ngày cuối của cuộc chiến đã để lại một thành tích anh dũng quyết thắng cho người chiến sĩ ÐPQ Bình Thuận dám ngẩng cao đầu mà không hổ thẹn với các đơn vị bạn Người lính ÐPQ Bình Thuận dám tự hào xứng đáng là đứa con yêu của QLVNCH. Làm sao nói hết và làm sao quên được những ngày nhiều kỷ niệm hào hùng đầy tình chiến hữu ấy, đó là điểm son của người quân nhân Bình Thuận.<br /><br /> Tôi cũng muốn ghi lại đôi nét để vinh danh những chiến hữu đã sinh ra và trưởng thành tại Bình Thuận cũng như những người con ưu tú từ mọi miền đất nước về chiến đấu chung vai sát cánh cùng con dân Bình Thuận và đã hy sinh vì Tổ quốc, nằm xuống yên nghỉ trên mảnh đất này hoặc đã hy sinh một phần thân thể để bảo vệ chính nghĩa Quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ Miền Nam nói chung và Bình Thuận nói riêng.<br /><br />Sau ngày 30-4-75, Dân, Quân, Cán, Chính, Bình Thuận vô cùng ngỡ ngàng và bàng hoàng lẫn uất hận khi biết được tên đầu Tỉnh Bình Thuận Trung tá Ðinh Văn Ðệ là Cộng sản nằm vùng. Suốt trong thời gian tại chức từ năm 1965 -1967, Ðệ đã ngầm ra lệnh cho đàn em Cộng sản của y sát hại không biết bao nhiêu đồng bào vô tội và Quân, Cán, Chính, Bình Thuận để lập công dâng lên Bác và Ðảng qua nhiều hình thức khác nhau.<br /><br /> Tôi nghĩ đây là một sơ hở yếu kém của Cục an ninh tình báo VNCH (Cảnh sát lẫn Quân đội) nên mới để lọt lưới một tên Việt Cộng chính hiệu đội lớp Quốc gia để giữ các chức vụ quan trọng như Thị trưởng Ðà Lạt kiêm Tỉnh trưởng Tuyên Ðức và Tỉnh trưởng Bình Thuận thay cho Ðại tá Ðàm Văn Quý năm 1965. Sau khi đã lập được nhiều chiến công cho Hà Nội tại Bình Thuận. Ðệ muốn được bước lên một nấc thang cao hơn là ra ứng cử làm Dân biểu hạ viện. Năm 1967 Ðệ đắc cử làm Dân Biểu hạ viện rồi làm Phó Chủ tịch hạ viện. Với chức vụ cuối cùng là Chủ tịch ủy ban Quốc phòng thuộc hạ viện. Ðệ được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tin dùng. Giả sử như Ðệ còn tại chức ở Bình Thuận cho hết năm 1967 qua Tết Mậu Thân năm 1968 thì liệu Bình Thuận có bị mất vào tay Cộng sản không ? Dân Quân Bình Thuận có bị sát hại tập thể như tại Thừa Thiên Huế không ? Có lẽ đây là ơn đức Tổ tiên Bình Thuận hộ trì con cháu nên đã tống khứ một tên Cộng sản khát máu ra khỏi Tỉnh Bình Thuận chăng.<br /><br /> Ngược dòng thời gian nhìn lại Bình Thuận vào những năm lúc Ðệ làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Bình Thuận ta mới thấy tình hình an ninh Bình Thuận quả thật tồi tệ so với các đời Tỉnh trưởng trong nền Ðệ nhất và Ðệ nhị Cộng hòa. Lúc bấy giờ đường QL1 trong phạm vi trách nhiệm của Tỉnh bị VC đấp mô chận đường thu thuế, bắt dân công, bắt Quân, dân, Cán, Chính nhiều nơi như cây số 25 thuộc Quận Hàm Thuận, Long Phú, Bàu Ốc, Bàu Sen ở Quận Thiện Giáo, Cầu Quẹo Quận Hòa Ða, Dốc Cúng và Ðá Chẹt gần Cà Ná thuộc Tuy Phong. Ðường Tỉnh lộ 8 từ Phan Thiết tới Thiện Giáo thì đầy mìn, hầu như ngày nào cũng có mìn nổ xe Lam, xe Ðò, Trâu Bò, làm tử thương nhiều đồng bào vô tội. Xã Ấp thì ngày Quốc gia đêm thì VC, người dân một cổ hai tròng thật khổ sở lầm than. Lực lượng quân sự trong Tỉnh thường hay bị phục kích chận đánh bất thần trong các lần mở đường để tiếp tế cho các Quận Bắc Bình Thuận. Các đơn vị lưu động và đồn bót Quận Huyện cũng bị đich tập kích tấn công gây cho ta nhiều tổn thất đáng kể về nhân mạng và vũ khí đạn dược. Cao điểm nhất là năm 1966, điển hình là đoàn Convoy của Ðại đội hành chánh Trung tâm Tiếp vận Bình Thuận bị phục kích tại Bàu Sen, Bàu Ốc (Lãnh thổ Thiện Giáo) trong chuyến tiếp tế cho các Quận Bác Bình Thuận. Ta tổn thất nặng nề về nhân mạng, đạn dược và vũ khí và lương thực bị địch cướp sạch . Ðại úy Xe Quận trưởng Hàm Thuận ban đêm nằm ấp bị ám sát tại Ðai Tài (gần vòng đai Thị Xã Phan Thiết). Ngày 15-10-1966 Quận Thiện Giáo bị địch tấn công chiếm gần hai phần ba Quận đường làm Ðại úy quận trưởng bị thương nặng, may nhờ tải thương kịp thời lên pháo đài làm từ thời Pháp rất kiên cố nên còn sống. Riêng Thiếu úy Thành Ban 2 Chi khu, Chuẩn úy Ngọ ban 3 Chi khu bị tử thương cùng với Chuẩn úy Cầu Ðại đội phó Ðại đội 888 / ÐPQ của Th/úy Thổ Thêm. Trung úy Duy người Phan Rang đang làm Ðại đội trưởng ÐÐ 445/ÐPQ tại Tuy Phong thuyên chuyển về Nam Bình Thuận chưa được một tháng cũng bị phục kích chết làm ÐÐ này bị thiệt hại nặng ở vùng Bình An Quận Thiện Giáo. Tình hình bất an như vậy nên bắt người lính chiến Bình Thuận phải gánh lên vai một sức nặng và chịu nhiều mất mát và hy sinh một cách tức tưởi, oan uổng thiệt thòi cho bản thân và gia đình họ. Trận đánh làm tôi ám ảnh và nhớ mãi là trận đánh tại vùng Ðại Tài, Ðại Thiện, chỉ cách cổng Ðại Tài Thị xã Phan Thiết khoảng một cây số, làm Ðại đội 953/ÐPQ hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn cùng với đoàn Cán bộ Xây dựng Nông thôn. Trong trận đánh này Ðại úy Khanh người Huế là Chi khu phó Tuy Phong thuyên chuyển làm Yếu khu trưởng Yếu khu Phú Ðại mới thành lập tại đồn Bàu Da bị tử thương cùng với Th/úy Huỳnh Ðức quê ở Mũi Né là Ðại đội trưởng ÐÐ 2/953/ÐPQ vừa tăng cường hành quân ở Quận Tuy Phong cùng điều về Nam một lần với Tr/úy Duy và Ðại úy Khanh. Riêng Th/uy Á người Sài Gòn làm Ðại đội phó bị thương nặng nhờ giả chết nên thoát nạn . Một tuần lễ sau đó trong một chuyến đi công tác từ Quận Tuy Phong về Phan Thiết tôi mới có dịp lên Quân y viện Ðoàn Mạnh Hoạch thăm Th/úy Á thì được Á tường thuật về trận đánh làm tôi rất xao xuyến xót xa và tràn đầy uất hận. Ðiều đáng nói ở đây trong trận đánh này là khi Ðại đội 2/953/ÐPQ và Ðoàn Cán bộ XDNT bị địch bao vây tấn công, Ðại đội xin yểm trợ và tiếp viện không được, mặc dù lúc đó các đơn vị bạn ở chung quanh sẵn sàng tiếp ứng như Chi đoàn Thiết vận xa M113 đóng tại đồn Trinh Tường với Ðại đội tùng thiết xin tham chiến cùng với Ðại đội 2/127/ÐPQ của Chi khu Hàm Thuận nóng lòng đã vượt qua sông Cà Ty đến Ga Phú Hội sẵn sàng tiếp viện cho đơn vị bạn, nhưng phòng 3 Tiểu khu cứ bảo chờ lệnh để đến khi Cộng quân lục soát bắn bồi từng người một đang bị thương tại mặt trận mà chúng không kể gì đến quy luật về chiến tranh. Sau khi địch tịch thu vũ khí và bắt các quân nhân, CBXDNT còn sống sót rút lui thì Tiểu khu mới cho đơn vị bạn vào để lượm xác thu dọn chiến trường, cứu được số ít binh sĩ giả chết còn sót lại, hoặc trốn trong nhà dân.<br /><br /> Ðiều này làm tôi và Á nghi ngờ Phòng 3 Tiểu khu hoặc Tham mưu trưởng có nội tuyến, nhưng thật không ngờ sau này mới biết Ðinh Văn Ðệ là thủ phạm. Ðại úy Khanh bị địch bắn bồi và đâm nhiều nhát ở nách, Th/úy Ðức bị bắn bồi bể mất cằm chỉ còn mũi và mắt. Ðức chết để lại bà mẹ già và người em trai đang phục vụ trong binh chủng TQLC cùng cô em gái út Huỳnh Thị Minh Tâm với một vợ đang mang thai gần ngày sinh và một đứa con gái nhỏ 3 tuổi .<br /><br /> Em gái Ðức sau này kết hôn cùng Ðại úy Võ Văn Năm quê ở Vĩnh Long, từng là Trưởng ban 2 Chi khu Tuy Phong, Hải Long, Thiện Giáo, sau đó chuyển về Tiểu khu Bình Tuy và bị mất tích tại Quận Hoài Ðức tháng 3/75 để lại một vợ cùng 4 con nhỏ. Chị Tâm chưa nhận được đồng lương mất tích của chồng thì đến ngày mất nước 30-4-75.<br /><br /> Một gia đình như gia đình cố Tr/úy Huỳnh Ðức đã chịu bao nhiêu sự mất mát tan thương, mẹ mất con, em mất anh, vợ mất chồng, con mất cha, một gia đình đã có hai người quả phụ. Tội lỗi đó ai gây ra ? Ðây chỉ là một gia đình tiêu biểu cho hằng trăm ngàn gia đình Việt Nam khác phải gánh chịu có thể còn nhiều tang thương hơn nữa. Cuối cùng người mẹ, người vợ, người đàn bà Việt Nam, người Quả phụ Việt Nam phải đè nén đau thương, ra sức cố gắng làm việc thay chồng để nuôi dạy con cái nên người. Ôi thật đáng tôn vinh và kính phục người phụ nữ Việt Nam.<br /><br /> Mặc dù Bình Thuận đã trải qua những giờ phút thập tử nhất sanh, nhưng Quân, Cán, Chánh Bình Thuận vẫn tin tưởng vào đường lối Chính nghĩa quốc gia, nên luôn giữ vững lập trường, giữ vững tay súng chiến đấu. Mặc dù Ðệ đã để lại nhiều cơ sở nội thành ở các phòng ban trong Tiểu khu, nhưng trong Tết Mậu Thân 1968, địch vẫn thất bại nặng nề. Mặc dù Thị xã Phan Thiết có đổ nát, thiệt hại về vật chất và gây tử vong cho nhiều đồng bào vô tội, nhưng Quân, Cán, Chính Bình Thuận quyết lòng bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng lại Thị xã, ổn định đời sống nhân dân từng bước.<br /><br /> Rồi Bình Thuận lại thay da đổi thịt nhanh chóng khi đón nhận cấp chỉ huy đầu Tỉnh mới có nhiều năng lực, biết yêu dân, đối xử với thuộc cấp trong tình huynh đệ chi binh. Do đó Quân, Cán, Chính Bình Thuận càng tin tưởng cùng đoàn kết một lòng xây dựng và chiến đấu càng hữu hiệu, từ thế thủ sang tấn công, đã đánh đuổi địch rút sâu vào các mật khu của chúng. Bình Thuận thật an cư lạc nghiệp trong những năm Ðại tá Ngô Tấn Nghĩa làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Bình Thuận và Ông Phạm Ngọc Cửu làm Phó Tỉnh trưởng.<br /><br /> Nếu vinh danh các chiến hữu sinh quán tại Bình Thuận hoặc các chiến hữu khắp mọi miền đất nước, vì nhiệm vụ của người trai trong thời loạn đã đóng góp xương máu của mình để bảo vệ an ninh và xây dựng được một bình Thuận được ổn định mà không nhắc đến những người con gốc Bình Thuận cũng vì bổn phận mà đi chiến đấu khắp 4 vùng chiến thuật trong mọi quân binh chủng của QLVNCH đã lập được nhiều thành tích hiển hách góp phần tô điểm thêm chiến công cho quân sử VNCH thì quả là một thiếu sót.<br /><br /> Người mà trong phạm vi bài viết này hôm nay tôi muốn nhắc đến để tiêu biểu cho hằng vạn chiến hữu Bình Thuận khác cũng đã đóng góp cho sự nghiệp chung mà ít ai biết đến họ, chiến hữu mà tôi muốn nói đó là cựu Ðại úy Trác Ngọc Anh.<br /><br /> Trác Ngọc Anh sinh và trưởng thành tại Xã Phú Long, Thiện Giáo, Cựu học sinh Phan Bội Châu Phan Thiết năm 1961 – 1967. Tốt nghiệp khóa 4/69 tại trường Bộ Binh Thủ Ðức vào tháng 1/70. Tháng 4/70 Ngọc Anh về phục vụ tại Biệt đội Quân báo thuộc Quân Ðoàn II. Vì nhu cầu chiến trường một ngày một giao động đưới áp lực cộng quân gia tăng cường độ đánh phá dữ dội kể từ năm 1971 trở về sau này, thì nhiệm vụ của Biệt đội Quân báo lại càng nặng nề hơn. Hằng ngày với hai phi cơ thám sát trực tiếp dành cho phòng 2 Quân Ðoàn mà Ngọc Anh và các chiến hữu đồng nghiệp có nhiệm vụ thì các toán Viễn thám Trinh sát của Sư Ðoàn 22, 23 BB theo nhu cầu trực tiếp của phòng 2 Quân đoàn II. Một nhiệm vụ khác nữa là thám sát theo dõi kiểm soát đường mòn Hồ Chí Minh chạy dài từ Nam Bình nguyên Boloven (Nam Lào) Attopeu dọc về phía nam (ngoài biên giới) xuống phía Tây Buprang (Quảng Ðức) giáp phía Bắc Tỉnh Phước Long thuộc Quân Ðoàn III nên đã phát giác nhiều cuộc chuyển quân đưa người và vũ khí đạn dược xâm nhập từ Bắc vào Nam của Cộng sản, cũng như ghi nhận được nhiều vị trí đóng quân, bãi đậu xe, các kho dự trữ, các bồn chứa xăng và ống dẫn dầu chạy dài dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh của Cộng sản xâm lược. Nhờ vậy mà Quân Ðoàn II đã gây cho đối phương nhiều thiệt hại nặng nề. Chiến công đó thuộc Biệt đội Quân báo mà Ngọc Anh đã phục vụ mang về cho phòng 2 Quân đoàn II nhiều loại huy chương cao quý và các cá nhân được thăng thưởng xứng đáng, điển hình là Thiếu tá Trịnh Tiếu, Năm 1970 về làm Trưởng phòng 2/ Quân đoàn II đến năm 1975 được vinh thăng Ðại tá.<br /><br /> <span style="font-style: italic;">“Ðại tá Ngô Tấn Nghĩa làm Trưởng phòng 2 / Quân đoàn II đến cuối năm 1969 về làm Tỉnh trưởng Bình Thuận, Thiếu tá Hòa tạm thời Xử lý thường vụ . Năm 1970 Thiếu tá Trịnh Tiếu về làm Trưởng phòng 2 Quân đoàn II cho đến năm 1975“</span>. Ðặc biệt vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày 14 -1-75 Trác Ngọc Anh đang thi hành nhiệm vụ hằng ngày thì phát hiện một đoàn xe của Cộng sản Bắc Việt tại Nam Attopeu Lào (Tây Bắc Kontum) khoảng 300 xe đang di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh. Phòng 2 Quân đoàn II sau khi nhận được tin tức do Ngọc Anh báo về, lập tức cuộc oanh kích vào mục tiêu do Quân đoàn II phối hợp và điều động có tất cả 101 Phi tuần gồm A 37 và F5 do Không quân từ Phi trường Nha Trang, Biên Hòa, Phù Cát, Phan Rang, Ðà Nẵng thực hiện suốt 5 giờ đồng hồ. Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày thì đoàn xe nói trên bị tiêu hủy khoảng 200 xe được ghi nhận . Sau khi phối kiểm tin tức được biết đó là Sư đoàn 968 của Cộng sản Bắc Việt từ Nam Lào di chuyển về dự định tham gia mặt trận Tây nguyên cùng với các Sư đoàn 320, 316, 330, F10 cùng nhiều đơn vị yểm trợ khác như Pháo bịnh, Xe tăng và Ðặc công mà sau này ta ghi nhận sau trận đánh Ban Mê Thuột, nhưng chúng đã bất khiển dụng sau ngày 14-1-1975. Cũng trong ngày đó Ngọc Anh được vinh thăng Ðại úy thực thụ đặc cách tại mặt trận.<br /><br /> Sau khi Ban Mê Thuột mất ngày 14-3-1975, Trác Ngọc anh tình nguyện nhảy vào Ban Mê Thuột cùng với Ðại tá Trịnh Tiếu và Trung đoàn 45 của Sư đoàn 23BB do Ðại tá Quang chỉ huy từ Pleiku xuống Phước An để tái chiếm lại Ban Mê Thuột. Ngày 16-3-75 Ngọc Anh bị thương tại Khánh Dương, cuối cùng Ngọc Anh cũng vào tù chịu chung số phận như hầu hết Quận Cán, Chính VNCH sau ngày 30-4-75.<br /><br /> Tôi gặp Ngọc Anh cùng tập trung ngày đầu tiên tại trường Marie Curie Sài Gòn. Chúng tôi bị chuyển qua các trại Hóc Môn Long Giao, Suối Máu Biên Hòa, Trại năm Hoàng Liên Sơn Yên Bái, Trại Ba, Trại Hai Ðói, trại Hai No sau cùng chúng tôi bị chuyển về trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa. Tại đây tham gia cùng các tù nhân khác chống đối lao động nên đã bị kỷ luật suốt 2 năm 3 tháng đến tháng 3-1982 trại chuyển 100 tù nhân về Z30A Xuân Lộc Ðồng Nai trong đó có Ngọc Anh, riêng tôi còn ở lại Thanh Cẩm. Cuối năm 1984 Ngọc Anh được phóng thích. Trong thời gian trong tù Ngọc Anh luôn giữ vững tinh thần Quốc gia bất khuất rất xứng đáng là một chiến sĩ của QLVNCH, người con yêu của quê hương Bình Thuận. Sau khi được thả về Sài Gòn, Ngọc Anh nhứt quyết không sống dưới chế độ độc tài Cộng sản nên đã tìm đường vượt biên, tổng số 11 lần mới thoát được trong đó có hai lần bị bắt lại rồi trốn vượt trại. Cuối cùng Ngọc Anh đã đến được bến bờ tự do vào năm 1986 tại thành phố Boston Tiểu bang Masschusetts từ đó đến nay.<br /><br /> Nhắc đến Bình Thuận không phải để chúng ta luyến tiếc một quá khứ với nhiều quyền lực, cũng không phải muốn phục hồi địa vị giành quyền lãnh đạo như nhà cầm quyền Cộng sản và bọn tay sai xuyên tạc chụp mũ thường gán ghép, mà đúng hơn là để nói lên nỗi lòng của những người con ly hương ở Hải ngoại, luôn nhớ về quê mẹ, nơi mà mình sinh ra và lớn lên, được nuôi dạy làm người biết nhớ ơn tiền nhân đã dày công dựng nước và giữ nước mà Bình Thuận là một bộ phận của dãy non sông đáng tự hào này.<br /><br /> Nhắc lại quá khứ đã qua với những sự kiện lịch sử đầy hào hùng lẫn chia sót cũng là để nhắc nhở thế hệ hậu duệ biết rõ sự thật lịch sử khác với sự xuyên tạc bóp méo của kẻ thù Cộng sản để từ đó can đảm dấn thân, dám nhận lãnh trách nhiệm tiếp tục con đường chiến đấu mà anh chị còn dang dở trong sự nghiệp quang phục quê hương, đem lại tự do Dân chủ Nhân quyền cho toàn dân . Xây dựng một Việt Nam hùng cường thịnh vượng để sánh vai ngang hàng với các nước tiên tiến trên Thế giới . Ðó chính là ước mơ, là nguyện vọng, là hoài bão của mọi người con yêu của nước Việt.<br /><br />Boston ngày 2-1 2011<br /><span style="font-weight: bold;">Huỳnh Văn Quý</span><br /><br /><br /><span style="font-weight: bold;"></span><br /><span style="font-weight: bold;"></span></div><span style="font-weight: bold;"><br /></span>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-88443642275032983172011-01-05T16:49:00.003+11:002011-01-05T17:16:41.926+11:00Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông<center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhruDCSpfPn-hNsEby0R64bDfj_dHPa3kikyX8cdPT_fFp9luwBpyP7gsYdhIblemCa3-C0o177-tT836TN0sRS1CgSp_KaaIMsTKIk86TnA8yieqbk86b7HXDWZ11BWP5Ea72sH_16Vyo/s1600/daita_nguyenhuuthong_trungdoantruongTrD42-SD22BB_wm.jpg"><img style="cursor: pointer; width: 550px; height: 359px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhruDCSpfPn-hNsEby0R64bDfj_dHPa3kikyX8cdPT_fFp9luwBpyP7gsYdhIblemCa3-C0o177-tT836TN0sRS1CgSp_KaaIMsTKIk86TnA8yieqbk86b7HXDWZ11BWP5Ea72sH_16Vyo/s400/daita_nguyenhuuthong_trungdoantruongTrD42-SD22BB_wm.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5558579393616003106" border="0" /></a><br /></center><br /><div style="text-align: justify;">Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng TrÐ 42/SÐ 22BB, tự sát vào cuối tháng 4, 1975 và được chôn trong nấm mộ tập thể tại Quy Nhơn.<br /><br />Thi hài ông được mai táng trong một ngôi mộ tập thể khổng lồ, dưới chân cột cờ bên ngoài Quân Y Viện Quy Nhơn, trong đó có 47 thi hài tử sĩ. Câu chuyện này được một hạ sĩ quan pháo binh kể lại, đồng thời gợi lại ký ức đau buồn nơi một vị bác sĩ hiện đang hành nghề ở New York.<br /><br />Vào đầu năm 1975, anh Dương Công An nguyên là một hạ sĩ quan Pháo Binh thuộc tiểu đoàn 223 Pháo Binh, nay anh đang sống tại Ðức. Anh An cho biết, vào những ngày cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975, đơn vị của anh bị tan hàng trên bờ biển Quy Nhơn, anh và một số anh em binh sĩ khác đã lẩn trốn nhiều ngày trong Quân Y Viện Quy Nhơn.<br /><br />Ở đấy, khi đó chỉ còn có một bác sĩ duy nhất, là Trung Úy Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ hiện là bác sĩ quang tuyến tại một trường đại học ở New York. Khi tin về nấm mộ tập thể tại Quân Y Viện Quy Nhơn được tôi đưa lên net, nhiều người đã điện thoại cho Bác Sĩ Trứ. Những cú điện thoại này nhắc nhở cho ông quá nhiều chuyện kinh hoàng trong quá khứ, khiến ông nhiều đêm mất ngủ.<br /><br />Sau nhiều lần gọi và nhắn trong máy là chúng tôi sẽ gọi lại, Bác Sĩ Trứ mới bốc máy. Ông kể, vào những ngày sau cùng, một buổi sáng ông được tiếp Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42 đi trực thăng đến thăm Quân Y Viện. Thấy tình cảnh trong quân y viện chỉ còn một bác sĩ và hằng trăm thương binh trong tình trạng thiếu ăn, thiếu thuốc, cũng như nhiều thương binh chết chưa được chôn cất, Ðại Tá Thông đã khóc trước mặt Bác Sĩ Trứ.<br /><br />Và chỉ một ngày sau đó, Quân Y Viện tiếp nhận một tử thi nữa, và đó chính là tử thi Ðại Tá Thông. Binh sĩ đưa xác ông tới, và cho biết ông đã tự sát. Nhiều nguồn tin sau này cho biết, Ðại Tá Thông đã từ chối xuống tàu vì binh sĩ dưới quyền ông còn kẹt lại quá nhiều, không di tản được.<br /><br />Khi đó, tại quân y viện này, có cả hàng trăm bệnh nhân cho một mình Bác Sĩ Trứ. Ðồng thời cũng có rất nhiều binh sĩ tử trận được mang về nằm từ trong nhà xác và rải rác ra khắp hành lang. Các thi hài tại nhà xác QYV đã bốc mùi, và chó đã vào nhà xác ăn, gặm các tử thi này, nên Bác Sĩ Trứ đã nhờ khoảng 20 anh em quân nhân còn sức khỏe phụ với Bác Sĩ Trứ đào một huyệt mộ rất lớn dưới cột cờ, gần khu quân xa của Quân Y Viện.<br /><br />Ở đây gần biển cát nên việc đào đất tương đối dễ dàng. Ðầu tiên là những tử sĩ đã được khâm liệm trong quan tài có phủ quốc kỳ được sắp xuống trước, tiếp theo là những người chết nằm trên băng ca được đặt lên trên những quan tài, cứ thế mà sắp xếp. Tất cả là 47 thi hài tử sĩ, trong số này có Ðại Tá Thông, là cấp chỉ huy trực tiếp của anh An.<br /><br />Lúc bấy giờ Saigòn chưa thất thủ, ngay cả sinh mạng của anh em binh sĩ bại trận cũng không biết sẽ ra sao nên sự việc chôn cất anh em tử sĩ lúc đó chỉ được thực hiện rất sơ sài hầu như là lén lút và vội vàng. Sau đó vài ngày tất cả bị bắt làm tù binh.<br /><br />Anh An cho biết câu chuyện đã đeo đuổi theo anh suốt bao nhiêu năm nay, tâm nguyện của anh là ước sao, có ai đó, có khả năng để cải táng được ngôi mộ tập thể này, đó cũng là dịp mà mình an ủi được phần nào linh hồn của những tử sĩ này, nhưng những hy vọng càng ngày càng bị thu nhỏ lại, vì qua tin tức báo chí đất đai ở Việt Nam đã bị lạm dụng xây cất bừa bãi, hay khu đất này thuộc phạm vi của bộ đội Cộng Sản thì không thể làm gì được.<br /><br />Khi bộ đội vào Quy Nhơn, họ bắt Bác Sĩ Trứ. Nhưng ông không chỉ bị bắt làm tù binh, mà còn bị buộc tội làm việc cho CIA vì mọi người đi hết sao chỉ còn một mình Bác Sĩ Trứ ở lại. Trong Quân Y Viện lúc ấy, có một lính Việt Cộng bị thương được một đơn vị đem gởi điều trị, nhưng lại bị khóa tay vào thành giường, Bác Sĩ Trứ không có chìa khóa mở còng nên nhóm bộ đội càng căm thù Bác Sĩ Trứ. Ông bị tù 4 năm 11 tháng, ra tù ông vượt biển đến Mỹ từ năm 1981, lúc còn độc thân, hiện nay đã có ba con theo học đại học.<br /><br />Nhiều bạn của Bác Sĩ Trứ cho biết có gặp ông vào năm 1976 tại trại tù Kim Sơn, Bình định. Họ đều cho rằng Bác Sĩ Trứ là một người thầy thuốc rất tận tâm, hết lòng với anh em bạn tù trong trại.<br /><br />Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ cho biết những ngày cuối cùng tại Quân Y Viện Quy Nhơn ông đã mục kích bao nhiêu cảnh chết chóc thương tâm mà đành bó tay không làm gì được, cũng như những năm ở trong các trại tù “cải tạo” ông đã chứng kiến hay tự tay chôn hàng trăm xác đồng đội. Những điều này ám ảnh ông không bao giờ quên được. Trong những ngày qua, có nhiều điện thoại hỏi đến ông về câu chuyện cũ gần 36 năm về trước khiến cho ông có nhiều đêm bị mất ngủ vì những cơn ác mộng. Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ nói rằng ông đã làm theo lương tâm và với tình đồng đội, đã chôn 47 tử sĩ dưới chân cột cờ của Quân Y Viện. Ông đã nhiều lần về lại Quy Nhơn, qua lại trước khu Quân Y Viện cũ, ngày nay đã là doanh trại của bộ đội Cộng Sản, mà không thể làm gì hơn.<br /><br />Tin về ngôi mộ tập thể cũng đến tai bà quả phụ cố Ðại Tá Thông, nhũ danh Phùng Ngọc Hiếu. Liên lạc được qua điện thoại hôm Thứ Năm, bà cho biết mấy ngày hôm nay, nhiều bạn bè đã chuyển cho bà về tin tức ngôi mộ tại Quân Y Viện Quy Nhơn, cũng là nơi yên nghỉ của Ðại Tá Thông.<br /><br />Từ 35 năm nay, bà cũng nghe nhiều tin tức về chồng và bà cũng có nghe tin ông tự sát. Bà cũng đã về Quy Nhơn tìm kiếm nhưng không có tin tức, và không biết xác ông được chôn cất ở đâu. Bà kể, trước khi mất liên lạc, Ðại Tá Thông có liên lạc với vợ và than phiền rằng trung đoàn của ông đang chiến thắng, vì sao lại có lệnh rút bỏ Pleiku.<br /><br />Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông sinh năm 1937, nguyên quán tại Thạch Hãn, Quảng Trị, tốt nghiệp khóa 16 Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Ông được vinh thăng đại tá năm 1972. Hiện nay bà quả phụ cố Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông cư ngụ tại Sacramento và ông bà có 5 người con đã thành đạt.<br /><br /><span style="font-weight: bold;">Source:</span> sưu tầm Net<br /><br /><br /><br /></div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-45497945395295788802010-09-16T17:32:00.001+10:002010-09-16T18:33:34.270+10:0038 năm trước tại Quảng Trị 15-09-1972<center><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)font-size:180%;" >Tái Chiếm Quảng Trị 15-09-1972</span><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh7UyXI1f3-e0x3Y1hjPiPbeoidB6HAm0l2p94-KosIKE70DBc4DZB_rj1oaah1K4hx_-jDD51k27HrM_Hqdi7zIWbsypijqSMLc7S9BFc7pu1MchNUJKoRDimeg7__g82G0B_QoNOe7Ms/s1600/cothanhqtri.15091972.jpg"><img style="WIDTH: 320px; HEIGHT: 400px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5517407775234341506" border="0" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh7UyXI1f3-e0x3Y1hjPiPbeoidB6HAm0l2p94-KosIKE70DBc4DZB_rj1oaah1K4hx_-jDD51k27HrM_Hqdi7zIWbsypijqSMLc7S9BFc7pu1MchNUJKoRDimeg7__g82G0B_QoNOe7Ms/s400/cothanhqtri.15091972.jpg" /></a><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TJHFJvAIjPI/AAAAAAAAJnE/UxWn0eiQrKc/s1600/dungco-cothanh-qtTD6.1.jpg"><img style="WIDTH: 350px; HEIGHT: 400px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5517407789532089586" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TJHFJvAIjPI/AAAAAAAAJnE/UxWn0eiQrKc/s400/dungco-cothanh-qtTD6.1.jpg" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TJHFKfgj7xI/AAAAAAAAJnM/flJCLbqYyFA/s1600/tt.nguyenvanThieu.nhatho.LaVang+20.09.1972.jpg"><img style="WIDTH: 670px; HEIGHT: 454px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5517407802553003794" border="0" alt="" src="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TJHFKfgj7xI/AAAAAAAAJnM/flJCLbqYyFA/s400/tt.nguyenvanThieu.nhatho.LaVang+20.09.1972.jpg" /></a><br /><br /><br /><br /></center>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-43356382551528550112010-06-19T07:50:00.000+10:002010-06-19T07:52:07.095+10:00Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19-6<center>Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19-6<br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvhxC1EitI/AAAAAAAAI_E/WvRvYCsoqkc/s1600/QuanlucVNCH.gif"><img style="WIDTH: 666px; HEIGHT: 231px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5484225203943017170" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvhxC1EitI/AAAAAAAAI_E/WvRvYCsoqkc/s400/QuanlucVNCH.gif" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvhx-5r7AI/AAAAAAAAI_M/B4QWKohz6_w/s1600/logoni2.gif"><img style="WIDTH: 320px; HEIGHT: 400px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5484225220068502530" border="0" alt="" src="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvhx-5r7AI/AAAAAAAAI_M/B4QWKohz6_w/s400/logoni2.gif" /></a><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvhynWavoI/AAAAAAAAI_c/E67DjLFhDg4/s1600/ARVN_parade25.jpg"><img style="WIDTH: 346px; HEIGHT: 400px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5484225230926429826" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvhynWavoI/AAAAAAAAI_c/E67DjLFhDg4/s400/ARVN_parade25.jpg" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvhy5opeQI/AAAAAAAAI_k/zqHRvaw8qeU/s1600/arvnportrait36.jpg"><img style="WIDTH: 666px; HEIGHT: 432px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5484225235834730754" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvhy5opeQI/AAAAAAAAI_k/zqHRvaw8qeU/s400/arvnportrait36.jpg" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvnbhdRPRI/AAAAAAAAJAU/qxfOfzvai-0/s1600/arvnportrait45.jpg"><img style="WIDTH: 666px; HEIGHT: 500px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5484231431277329682" border="0" alt="" src="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvnbhdRPRI/AAAAAAAAJAU/qxfOfzvai-0/s400/arvnportrait45.jpg" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvnc3yGQUI/AAAAAAAAJAs/gLNpXq5QqHc/s1600/ARVN_women2.jpg"><img style="WIDTH: 666px; HEIGHT: 546px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5484231454450139458" border="0" alt="" src="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvnc3yGQUI/AAAAAAAAJAs/gLNpXq5QqHc/s400/ARVN_women2.jpg" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvndUgHTSI/AAAAAAAAJA0/ueP19AwEuHo/s1600/ARVN_women3.jpg"><img style="WIDTH: 666px; HEIGHT: 408px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5484231462159338786" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvndUgHTSI/AAAAAAAAJA0/ueP19AwEuHo/s400/ARVN_women3.jpg" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh6I0krXHU0WVSjfQDjrs9akCXt2PsTP_hygFTaTLFFq9JSJzKjssU7CkEgb9zpjcK_IsOXWPjFT-mMSAQhfBzskLNluQvgcq2iqwEBadq42fV3KbFT3AW7T4KDxxWLrsHaOsOgCUWfNmo/s1600/ARVN_parade19.jpg"><img style="WIDTH: 666px; HEIGHT: 394px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5484231451758990098" border="0" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh6I0krXHU0WVSjfQDjrs9akCXt2PsTP_hygFTaTLFFq9JSJzKjssU7CkEgb9zpjcK_IsOXWPjFT-mMSAQhfBzskLNluQvgcq2iqwEBadq42fV3KbFT3AW7T4KDxxWLrsHaOsOgCUWfNmo/s400/ARVN_parade19.jpg" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvncNeAKoI/AAAAAAAAJAc/4QkHA9NGXCQ/s1600/ARVN_parade13.jpg"><img style="WIDTH: 660px; HEIGHT: 573px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5484231443091565186" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvncNeAKoI/AAAAAAAAJAc/4QkHA9NGXCQ/s400/ARVN_parade13.jpg" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvhyLINBtI/AAAAAAAAI_U/yeXdC3VXfo8/s1600/ARVN_parade23.jpg"><img style="WIDTH: 666px; HEIGHT: 472px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5484225223350617810" border="0" alt="" src="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/TBvhyLINBtI/AAAAAAAAI_U/yeXdC3VXfo8/s400/ARVN_parade23.jpg" /></a><br /><br /><object width="640" height="385"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/XHCkFbNstas&color1=0xb1b1b1&color2=0xd0d0d0&hl=en_US&feature=player_embedded&fs=1"><param name="allowFullScreen" value="true"><param name="allowScriptAccess" value="always"><embed src="http://www.youtube.com/v/XHCkFbNstas&color1=0xb1b1b1&color2=0xd0d0d0&hl=en_US&feature=player_embedded&fs=1" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" height="385" width="640"></embed></object><br /><br /><br /><br /></center>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-30330582894991398202010-04-25T17:48:00.000+10:002010-04-25T17:49:14.702+10:00Người Lính Và Vành Khăn Tang Tổ Quốc! - Hoàng Nhật Thơ<center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9PkxQt_ULI/AAAAAAAAIu0/uGN0tlTO0Og/s1600/vinhdanhquanlucVNCH.jpg"><img style="WIDTH: 618px; HEIGHT: 230px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5463962307883126962" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9PkxQt_ULI/AAAAAAAAIu0/uGN0tlTO0Og/s400/vinhdanhquanlucVNCH.jpg" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9PfTgKYuLI/AAAAAAAAIus/CGHDK3pGPi4/s1600/3oi.jpg"><img style="WIDTH: 323px; HEIGHT: 400px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5463956299074549938" border="0" alt="" src="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9PfTgKYuLI/AAAAAAAAIus/CGHDK3pGPi4/s400/3oi.jpg" /></a><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9PfTNL7i1I/AAAAAAAAIuk/JrqAl93aj00/s1600/00+Tuong+Thuong+Tiec.jpg"><img style="WIDTH: 295px; HEIGHT: 400px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5463956293980752722" border="0" alt="" src="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9PfTNL7i1I/AAAAAAAAIuk/JrqAl93aj00/s400/00+Tuong+Thuong+Tiec.jpg" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9PlaRqn4zI/AAAAAAAAIu8/_jw697UoheY/s1600/3041975.jpg"><img style="WIDTH: 304px; HEIGHT: 400px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5463963012512080690" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9PlaRqn4zI/AAAAAAAAIu8/_jw697UoheY/s400/3041975.jpg" /></a></center><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: boldfont-size:85%;" >Hoàng Nhật Thơ</span> <ul>Kính thưa quý Niên trưởng<br />Kính thưa quý Huynh trưởng<br />Kính thưa quý vị Quân Cán Chính VNCH</ul><div style="TEXT-ALIGN: justify">Cuộc chiến Việt Nam trên mặt trận quân sự, thật sự chấm dứt lúc 1:15 trưa ngày 01/05/1975, sau khi Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn,Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện cùng các chiến sĩ dưới quyền bị sa vào tay giặc.<br /><br />Trước đó một ngày, tức là vào lúc 10:30 sáng ngày 30/04/1975, Tổng Thống* Dương Văn Minh kêu gọi các đơn vị, quân nhân các cấp thuộc QL/VNCH buông súng, sau này cũng có người gọi ông Dương Văn Minh là tổng thống "vi hiến". Trong phạm vi bài viết này, tôi không bàn về hai chữ "vi hiến" hay hợp hiến, mà tôi chỉ nhắc lại giờ phút lịch sử sang trang máu của 35 năm về trước, để cùng chia sẻ niềm đau thương dân tộc và cũng để "Vinh Danh_Tưởng Niệm_Tri Ân" những Người Lính VNCH. Sau lời kêu gọi buông súng của Ông Dương Văn Minh, một số đơn vị trưởng và cấp chỉ huy vì không muốn người dân và thuộc cấp phải đổ máu trong giờ thứ 25, nên đã ra lệnh kéo mảnh vải trắng lên ngọn cờ tại đơn vị, để chấp nhận chấm dứt chiến tranh. Từ ngày đau thương đó đến nay đã 35 năm, mảnh vải trắng đó bị xem là lá cờ đầu hàng. Không, VNCH bị bán đứng chớ Người Lính VNCH không thua ; Miền Nam Việt Nam bị cộng sản cưỡng chiếm, nhưng Người Lính VNCH không đầu hàng. Người Lính VNCH chẳng những can trường để chiến thắng, mà còn can trường ngay cả trong chiến bại. Thiếu TướngNguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng , Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã hãnh diện và hiên ngang thay mặt cho toàn thể QL/VNCH chứng minh điều đó. Người Lính VNCH không bao giờ thua hoặc đầu hàng cộng sản. Mảnh vải trắng được Người Lính VNCH trân trọng và nghiêm trang từ từ kéo lên đỉnh ngọn cờ, kèm theo hai dòng lệ nhạt nhòa trong ngày tang thương đó là "VÀNH KHĂN TANG TỔ QUỐC" !<br /><br />Mùa Xuân đến rồi qua đi, để lại trong lòng người Việt tha hương một nỗi buồn man mác trên con đường viễn xứ ... Tháng Tư lại đến, gợi nhớ trong chúng ta một tháng tư của 35 năm về trước .... Một Tháng Tư mà cả một quân đội hùng mạnh, thiện chiến nhất Đông Nam Á, phải tan hàng vì sự phản bội của đồng minh, một quân đội bách chiến, bách thắng bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới ; Một Tháng Tư mà cả quê hương Việt Nam, đã bị Cộng sản Bắc Việt nhuộm đỏ bằng máu của Quân Dân Cán Chính VNCH ; Một Tháng Tư mà cả một dãy Giang san Việt Nam hoa gấm bị bọn cộng sản phá tan nát, nhận chìm trong máu và nước mắt của 85 triệu người dân Việt trong suốt 35 năm qua. "THÁNG TƯ ĐEN 1975" ...!!!<br /><br />Trở ngược dòng lịch sử ... Trong suốt chiều dài của cuộc chiến trên quê hương Việt Nam, Người Lính VNCH đã dâng hiến cả cuộc đời cho Quê Hương, Tổ Quốc ; Người Lính VNCH đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn, để hoàn thành trách nhiệm mà Tổ Quốc đã giao phó: "Bảo Quốc_An Dân".<br /><br />Chúng ta không thể nào quên được hình ảnh Người Lính VNCH bước trên những đống gạch vụn đổ nát, trộn lẫn xác đồng đội và giặc thù, dưới từng cơn mưa đạn của địch quân giăng kín cả đất trời, để cắm ngọn cờ chiến thắng trên Cổ thành Quảng Trị vào ngày 16/09/72; Hình ảnh của những Người Lính VNCH tiến lên trong lửa khói mịt mờ, trong những trận mưa pháo kinh hoàng của quân thù, máu chảy theo mỗi bước đi, để chiếm lại từng tấc đất của quê hương nói chung, chiếm lại từng căn nhà góc phố cho người dân nơi thị trấn An Lộc nói riêng, vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 .v..v...<br />Người Lính VNCH gục ngã trên khắp các mặt trận lớn nhỏ, thân xác của họ nát tan trong đạn pháo của quân thù, để cho đất Mẹ được an vui; Máu của họ tuôn chảy trên khắp các nẻo đường đất nước, thấm vào lòng đất Mẹ để cho ruộng lúa được xanh tươi, hoặc một phần thân thể của họ đã gởi lại trên chiến trường, mục rã theo thời gian. Tất cả sự hy sinh đó là để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam. Nhưng ... đớn đau thay ! Người Lính VNCH đã bị người bạn đồng minh phản bội và bức tử phải buông tay súng trong ngày 30/04/75. Để rồi bao nhiêu người đã tuẩn tiết chết theo vận nước; Hằng ngàn người đã bị bọn cộng sản hành quyết ngay sau khi bọn chúng cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam ; Hằng trăm ngàn Quân Cán Chính đã bị đưa vào 200 trại tù khổ sai, khắc nghiệt trên hai miền Nam Bắc, nhận lãnh sự trả thù đê tiện và hèn hạ bằng những cực hình tra tấn dã man, độc ác của bọn cộng sản vô thần khát máu. Khoảng một trăm sáu mươi lăm ngàn người (165,000) đã chết trong các trại tù khổ sai. Cho đến ngày hôm nay, còn khoảng sáu mươi lăm ngàn (65,000) Quân Cán Chính VNCH đã chết mất xác vì bị bọn cộng sản thủ tiêu.<br /><br />Dòng đời lặng lẽ trôi qua thoáng đó đã 35 năm. Dù cát bụi thời gian có chôn vùi tất cả và mọi việc sẽ đi vào lãng quên. Nhưng có những sự việc, những hình ảnh sẽ mãi mãi trường tồn với thời gian, trơ gan cùng tuế nguyệt. Đó là hình ảnh, sức chiến đấu phi thường và sự hy sinh cao cả của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.<br /><br />Chúng tôi, những Người Lính VNCH nhắc lại dĩ vãng, không phải để tiếc nuối một thời quá khứ vàng son, danh vọng. Đời Người Lính VNCH, đầu đội trời quê cha, chân bước đi trên mảnh đất mẹ, đôi vai gầy bé nhỏ gánh vác cả giang san, lưng mang balô trĩu nặng tình yêu thương quê hương, dân tộc, đối diện với cái chết từng giây, từng phút. Đường hành quân trong rừng sâu, núi thẳm, có khi cả tháng không thấy ánh nắng mặt trời, đôi giày trận chưa hề được tháo ra một lần, những buổi cơm gạo sấy, nuốt vội vã dưới cơn mưa tầm tả. Cuộc đời của Người Lính như thế thì đâu có gì là vàng son, danh vọng ... Nếu có danh vọng chăng là chúng tôi hãnh diện và tự hào được khoác vào mình bộ quân phục của QL/VNCH ; Vàng son của Người Lính là đem máu xương để đổi lấy sự thanh bình cho quê hương.<br /><br />Chúng tôi nhắc lại dĩ vãng, là để cho những thế hệ trẻ sau này hiểu rõ về một quá khứ bi hùng và sự hy sinh của Người Lính VNCH. Nhờ những sự hy sinh đó, mà chúng ta còn được hít thở bầu không khí tự do ngày hôm nay. Chúng tôi cũng muốn cho thế hệ trẻ đang sống trong nước hiểu rõ về tánh nhân bản và chính nghĩa của Người Lính VNCH; Người Lính VNCH không phục vụ cho bất cứ một đảng phái hay tổ chức nào, Người Lính VNCH đi chiến đấu với một trách nhiệm và một lý tưởng duy nhất là "Bảo Quốc_An Dân".<br /><br />Có một số người thiển cận đã đổ hết trách nhiệm lên Người Lính VNCH về quốc nạn 30/04/1975, cũng có nhiều cấp chỉ huy, lãnh đạo đã đứng ra nhận lãnh trách nhiệm này. Nếu nói như thế thì tội cho Người Lính VNCH quá ! Người Lính VNCH đã làm hết sức của mình. Người Lính VNCH dù không còn đầy đủ vũ khí, đạn dược và đã bị người bạn đồng minh bỏ rơi, nhưng họ vẫn tiếp tục chiến đấu trong đơn độc với tỷ lệ một (1) chọi sáu (6), tới giờ thứ 25 của cuộc chiến. Cuối cùng vì quân lệnh, vì kỹ luật của quân đội mà Người Lính đành nghẹn ngào gãy tay súng ! Người Lính đã làm tròn trách nhiệm mà tổ quốc đã giao phó. Một bằng chứng hùng hồn và cụ thể là không có một mảnh đất nào của Miền Nam Việt Nam bị cộng sản chiếm, mà Người Lính VNCH không lấy lại được trong suốt 21 năm chinh chiến.<br /><br />Nếu Miền Nam Việt Nam chế tạo được vũ khí, đạn dược, chiến đấu cơ, chiến hạm và các phương tiện thiết bị chiến tranh, thì đừng nói chi là bọn Cộng sản Việt Nam, mà trên thế giới này khó tìm ra được một quân đội nào được xem là đối thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.<br /><br />Trong thời chiến, Người Lính VNCH là người chịu nhiều gian nan, cực khổ và hiểm nguy nhất, nhưng họ lại là những người bất hạnh, tang thương nhất sau cuộc chiến.<br /><br />Những Người Lính VNCH may mắn đến được bến bờ tự do, từ những ngày hổn loạn cuối Tháng Tư Đen, cho đến những chuyến vượt biển kinh hoàng, những chuyến bay ra đi theo diện H.O hoặc chương trình đoàn tụ. Dù họ ra đi bằng phương tiện hay diện nào đi nữa, không phải là họ sợ hoặc trốn chạy cộng sản. Họ ra đi với một lý do duy nhất là "Người LínhVNCH không đội trời chung với cộng sản".<br /><br />Người Lính VNCH buông súng là để chấm dứt cuộc chiến trên mặt trận quân sự, để chuyển qua một mặt trận mới trong một cuộc chiến mới. Đó là mặt trận chính trị trong cuộc chiến "Nhân Bản", cuộc chiến nhân bản này chỉ có một trận chiến duy nhất, và trận chiến này sẽ là trận thư hùng cuối cùng, chúng ta dùng Lá Cờ Vàng Chính Nghĩa khai tử và bôi xóa vĩnh viễn đảng CSVN trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam nói riêng và trong dòng lịch sử thế giới nói chung.<br /><br />Cho đến ngày hôm nay, 35 năm sau cuộc chiến. Người Lính trẻ nhất của QL/VNCH cũng đã trên 50 tuổi. Những cấp chỉ huy, lãnh đạo thì sương tuyết đã phủ trắng mái đầu. Những Người Lính VNCH bây giờ mắt đã yếu, thân thể không còn được khỏe mạnh, tráng kiện như ngày xưa. Nhưng ý chí và lý tưởng của họ vẫn không phai sờn theo dòng thời gian nghiệt ngã của tạo hóa. Dù họ đang sống ấm no nơi xứ lạ quê người, nhưng họ vẫn đem những chuỗi ngày còn lại, đóng góp công sức vào công cuộc đấu tranh giải thể bạo quyền Cộng sản Việt Nam, để mang lại sự tự do, hạnh phúc, ấm no cho 85 triệu người dân trong nước và những thế hệ mai sau.<br /><br />Tất cả những sự hy sinh của Nguời Lính VNCH được trang trọng lưu vào trang sử của Quê Hương, kèm theo bốn chữ mang đầy đủ ý nghĩa nhất "TỔ QUỐC GHI ƠN".<br /><br />Ba mươi lăm năm (35) chỉ là một thoáng so với thời gian vô cùng tận của tạo hóa, nhưng lại là một chuổi ngày dài đau thương của dân tộc Việt. Ba mươi lăm (35) năm qua, vết thương cũ hầu như chưa một lần khép kín ; Nhưng đau buồn thay ...! Những hình ảnh kinh hoàng, hoang man, sợ hãi chen lấn nhau trong những ngày cuối "Tháng Tư Đen" khi giặc tràn về thành phố; Những hình ảnh vượt biển cả chống chọi với phong ba bão táp, trực diện với thần chết để đi tìm hai chữ "Tự Do", hầu như đã phai mờ trong lòng của một số người; Cuộc sống cơm no, áo ấm nơi xứ lạ đã làm cho họ quên ngày đại tang của quê hương; Cuộc sống vật chất xa hoa nơi đất khách đã phủ lấp đi sự hy sinh cao cả của những Người Lính VNCH. Họ đã thờ ơ, lãnh đạm với sự tan nát của Quê Hương cùng với sự khổ đau, tang tóc của 85 triệu người dân trong nước. Tàn nhẫn hơn nữa là họ đã quay về quỳ mọp bắt tay, hợp tác với giặc, bắt tay và hợp tác với những kẻ đã từng sát hại thân nhân của họ và truy đuổi họ vào con đường chết ...... Hỡi ơi ...!!!<br /><br />Xin đừng vứt bỏ hai chữ "Quốc Hận" bên lề đường viễn xứ. Xin đừng nhẫn tâm đâm thêm một nhát dao vào lưng những Người lính VNCH đang ôm nỗi quốc hờn, lưu vong biệt xứ, hoặc đang lê lết cuộc đời tăm tối, tang thương trên quê hương Việt Nam. Xin đừng phản bội những người đã gục ngã và những người đang nằm trong lao tù vì công cuộc đấu tranh giải thể bạo quyền cộng sản.<br /><br />Hãy đóng góp công sức, góp một bàn tay cho công cuộc đấu tranh này sớm thành công.<br /><br />Xin đừng để con đường viễn xứ mỗi ngày mỗi dài thêm.<br /><br />Trân trọng kính chào.<br /><br />Tưởng Niệm Quốc Hận lần thứ 35.<br />Người Lính VNCH<br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Hoàng Nhật Thơ</span><br /><br /><span style="COLOR: rgb(51,51,51);font-size:85%;" ><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">*</span><span style="FONT-STYLE: italic"> 2 chữ "Tổng Thống" trong bài viết này là nói về giờ phút lịch sử sang</span><span style="FONT-STYLE: italic"> trang máu của 35 năm về trước.</span></span><br /><br /></div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-42565700501001330852010-04-25T10:00:00.002+10:002010-04-25T10:04:39.364+10:00Phút thành thần của Tướng Lê Văn Hưng - Nguyễn Ðạt Thịnh<center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjXPsdV3wXKEB3fKM5Z8_MWqJLlucCQxoH_CRB9SbigwXaCnOqZNlTaQT0K7VEnrloXZUJQAE_9ijs07TlsoVw6SwqY4tNpiYOE9PTDTVPjNoFDch-x1qfSQfbe7BfG3drEWbmLq2YN18o/s1600/levanhung..jpg"><img style="WIDTH: 343px; HEIGHT: 400px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5463837989871044850" border="0" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjXPsdV3wXKEB3fKM5Z8_MWqJLlucCQxoH_CRB9SbigwXaCnOqZNlTaQT0K7VEnrloXZUJQAE_9ijs07TlsoVw6SwqY4tNpiYOE9PTDTVPjNoFDch-x1qfSQfbe7BfG3drEWbmLq2YN18o/s400/levanhung..jpg" /></a><span style="COLOR: rgb(102,102,102)"><br />Di ảnh Cố Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng</span></center><br /><span style="FONT-STYLE: italic;font-size:85%;" ><span style="FONT-WEIGHT: bold">Nguyễn Đạt Thịnh</span></span><br /><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify">Tôi tin Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đã thành thần đúng như câu dân gian thường nói về những vị dũng tướng “sinh vi tướng, tử vi thần”.<br /><br />Tôi chứng kiến cuộc sống uy dũng của ông qua nhiều giai thoại. Một trong những giai thoại đó xẩy ra vào năm 1972, trong cuộc tổng tấn công của Việt Cộng. Năm đó, ông tử thủ An Lộc, và tôi ra vào An Lộc nhiều lần, theo dõi những nỗ lực của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh trong cố gắng chặn đứng mũi dùi của địch tại An Lộc, thị trấn chỉ cách thủ đô Sài Gòn 3 tiếng đồng hồ, nếu đoàn chiến xa T 54 của chúng không vướng vào sức kháng cự quyết liệt của chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa.<br /><br />Ngày 13 tháng Tư 1972, quân Việt Cộng từ 3 mặt tấn công vào tuyến phòng thủ của Quân Lực VNCH, hai mặt Ðông và Tây đánh bật địch quân ra nhưng tuyến phòng thủ hướng Bắc, nhiều chiếc T- 54 của địch húc rào gai tràn vào.<br /><br />Ðang viết bài tại tòa soạn, (số 2bis đường Hồng Thập Tự), thì được tin địch quân chọc thủng phòng tuyến, tôi điện thoại gọi đại tá Lê Văn Hưng, tư lệnh sư đoàn, và hỏi ông:<br /><br />- “Tình hình ở trỏng ra sao?”<br /><br />- “Ðái ra quần rồi chứ sao?”<br /><br />Tướng Hưng có lối nói đùa rất tỉnh, nghe giọng đùa cợt quen thuộc tôi thấy yên bụng và bảo ông:<br /><br />- “Viết xong bài tường thuật này, tôi sẽ ra Tân Sơn Nhất, kiếm trực thăng vào gặp anh.”<br /><br />- “Ðừng đáp trên nóc hầm nghen, ở trển không còn trống như ngày hôm qua nữa,” tướng Hưng bảo tôi.<br /><br />- “Có gì ở trển?”<br /><br />- “Một chiếc T 54.”<br /><br />Tôi tưởng tướng Hưng vẫn nói dỡn như thường khi, nhưng khi tôi vào đến An Lộc, đại tá Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Lữ Ðoàn 1 Nhẩy Dù, bảo tôi là ổng mới gỡ “con rận” đó trên lưng đại tá Hưng.</div><center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9N1xGK00TI/AAAAAAAAIt0/HOaS826upOc/s1600/LeVanHung1.jpg"><img style="WIDTH: 250px; HEIGHT: 246px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5463840259260600626" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9N1xGK00TI/AAAAAAAAIt0/HOaS826upOc/s400/LeVanHung1.jpg" /></a><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9N1wych89I/AAAAAAAAIts/wuaceXtKg7U/s1600/LeVanHung2.jpg"><img style="WIDTH: 200px; HEIGHT: 246px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5463840253966152658" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9N1wych89I/AAAAAAAAIts/wuaceXtKg7U/s400/LeVanHung2.jpg" /></a><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9N1wXuCHZI/AAAAAAAAItk/vMrU4jV1huc/s1600/LeVanHung3.jpg"><img style="WIDTH: 220px; HEIGHT: 246px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5463840246791806354" border="0" alt="" src="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9N1wXuCHZI/AAAAAAAAItk/vMrU4jV1huc/s400/LeVanHung3.jpg" /></a></center><center><span style="COLOR: rgb(102,102,102);font-size:85%;" ><span style="FONT-STYLE: italic">Đại Tá Lưỡng, TL/ LĐI Nhảy Dù Thời thế tạo ra Tướng Hưng Báo Diều Hâu của làng báo Sài Gòn</span></span></center><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify">Ba (3) trong nhiều tấm hình tôi chụp trong lúc vào làm phóng sự tại An Lộc, đăng trên tờ Diều Hâu số 110 phát hành ngày 21 tháng Tư 1972 (đại tá Lưỡng và đại tá Nhựt đều cầm trên tay một chai martell quà tặng của người dân Sài Gòn.<br /><br />Ông Lưỡng bảo tôi, “Anh tìm anh Mạch Văn Trường để nghe ông vua diệt T 54 kể chuyện đánh tăng địch.”<br /><br />Chúng tôi có một số bạn chung, bọn “nhà giầu” sống tại Sài Gòn với mặc cảm mắc nợ người xả thân ngoài chiến tuyến; mỗi lần tôi vào chiến trường quan sát để viết bài, họ gửi tôi một, hai thùng, mỗi thùng 12 chai rượu mạnh để tặng người cầm súng.<br /><br />Trong ảnh, bạn đọc có thể thấy đại tá Lưỡng, đại tá Nhật mỗi người cầm trong tay một chai martell. Tôi uống với họ, mừng hay không mừng về những chiến công của họ. Có nhiều chiến công không mừng mà còn lo nữa, vì dù tiếng súng đã im, nhưng giao tranh chưa dứt.<br /><br />Tôi gặp Lưỡng trên đường vào gặp Hưng, người “anh hùng tỉnh rụi”, cái tên bè bạn đặt cho anh. Tôi biết rất nhiều về Hưng, nhưng tôi không chứng kiến phút quyết liệt, anh đẩy vợ và đẩy người sĩ quan tùy viên tâm phúc ra khỏi phòng, để làm hành động không hàng giặc. Hơn nữa tôi không viết về anh được như anh Nghĩa, người sĩ quan tùy viên của anh viết: <span style="COLOR: rgb(0,0,102)">viết với lòng yêu thương kính cẩn của một vị trung úy viết về ông tướng mà anh Nghĩa tâm phục, khẩu phục.</span><br /><br />Tôi vô cùng chân thành giới thiệu bài viết của anh Nghĩa.<br /></div><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Nguyễn Ðạt Thịnh</span><br /><center>ooOoo</center><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">Bài viết về phút cuối cùng về Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng</span><br /><br />Tác giả: <span style="FONT-WEIGHT: bold">Nghĩa*</span><br /><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify"><span style="COLOR: rgb(0,0,102);font-size:85%;" ><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">* </span><span style="FONT-STYLE: italic">Chuẩn tướng Mạch Văn Trường, người cộng tác mật thiết với chuẩn tướng Lê văn Hưng cho tôi biết cấp bực chót của anh Nghĩa là trung úy</span></span><br /><br />Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay.<br /><br />Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của vị Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.<br /><br />Tháng 4-99, tôi đọc được bài viết của bà Lê Văn Hưng (Phạm Thị Kim Hoàng) có nhắc đến vị sĩ quan tên Nghĩa ở kề cận với Tướng Hưng đến giây phút chót, chắc đó là ông Nghĩa đã viết đoạn hồi ký mà tôi may mắn có được.<br /><br />Gần cuối năm 1999, tôi đọc truyện dài Nửa Sơn Hà của nữ văn sĩ Kathy Trần có đoạn viết về Tướng Nam, Tướng Hưng, tác giả chú thích là lấy tài liệu từ Phạm Trung Nghĩa. Nghĩa nầy chắc là Nghĩa khác.<br /><br />Tôi không truy tìm được tông tích tác giả của xấp tài liệu nầy để ngỏ ý xin phép được phổ biến. Tôi nghĩ đây là tài liệu quý hiếm để người viết sử đối chiếu với các tài liệu khác, nên tôi tự ý cho phổ biến trước và sẽ xin phép sau, khi nào biết được tác giả. Mong ông Nghĩa hoặc người em của ông Nghĩa có đọc được thì hãy liên lạc với tôi (qua nhà báo).<br /><br />Hồi ký hay ký ức là những bài viết kể lại sự kiện đã qua theo trí nhớ, theo chủ quan của người viết. Do vậy, nhiều người cùng chứng kiến chung một sự kiện mà khi kể lại, từng câu chuyện của từng người đem đối chiếu thấy không giống nhau 100%. Người viết sử muốn được trung thực thường hay tìm đọc những tài liệu từ các hồi ký, nhứt là hồi ký của những người viết không nhằm mục đích riêng tư nào, để chọn lựa lấy những chi tiết đáng tin cậy, thuyết phục được người đọc mà dựng lại lịch sử. Đọc đoạn hồi ký ngắn của ông Nghĩa, tôi nghĩ đây là người viết hồi ký không có dụng tâm gì cả, đáng tin cậy là trung thực trong tầm nhìn, trong giới hạn hiểu biết của ông, cạnh vị Tướng anh hùng của Quân Lực VNCH, người đã quyết định can đảm vào phút chót cuộc đời quân nhân của mình<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)"> “Tướng chết theo thành”</span>.<br /><br />Trân trọng giới thiệu cùng độc giả đoạn hồi ký đặc biệt nầy.<br />San Jose, tháng 3-2000<br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Nguyễn Phước Đáng</span><br /><br /><br />Tác giả gởi người em.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">“... Anh cố gắng nhớ và ghi lại những gì xảy ra vào những ngày hấp hối của Quân Đoàn IV và cái chết bi hùng của Tướng Lê Văn Hưng. Không là văn sĩ, anh cũng không làm khung trước, nhớ gì viết nấy. Anh mong những vị chỉ huy trực tiếp của Tướng Hưng, những người đã từng trù dập, bôi bẩn vị danh tướng khi ông còn tử thủ ở An Lộc địa. Anh muốn nói tới Tổng thống Thiệu, Tướng 3 sao Nguyễn Văn Minh hiện còn sống tại Mỹ. Nếu quý vị còn sĩ khí của một vị tướng lãnh, hãy viết lên sự thật, để tỏ lòng sám hối, về những ngày tháng hè 72 An Lộc – Bình Long.</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">“... Nếu có thể, em liên lạc với Thiếu tá Phương, Trung Uý Phúc, đi diện HO, hiện sống tại Mỹ để biết thêm chi tiết về Tướng Hưng trong thời gian ông ở Sư Đoàn 5 BB mà anh không biết ...”</span><br /></div><ul style="COLOR: rgb(102,0,0); FONT-WEIGHT: bold">Vào chuyện</ul><center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9N0s3qY49I/AAAAAAAAItc/Rrr5BGZmQXQ/s1600/TuongLEVANHUNG..jpg"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 386px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5463839087135351762" border="0" alt="" src="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S9N0s3qY49I/AAAAAAAAItc/Rrr5BGZmQXQ/s400/TuongLEVANHUNG..jpg" /></a><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Di ảnh Cố Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng</span></center><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify">Lúc đó khoảng 8h30 tối ngày 30-4-75. Bộ quân phục nghiêm chỉnh vẫn còn trên người Chuẩn Tướng và tôi. Bên trong phòng ngủ Chuẩn Tướng, ngay sát đầu cầu thang trên lầu, sau nụ hôn vĩnh biệt của phu nhân vừa kịp đặt trên má chồng, ông Tướng đã vội vã đẩy bà ra phía ngoài và đóng nhanh cánh cửa. Lúc quay người lại, thấy tôi còn đứng lại trong phòng, giọng ông thảng thốt:<br /><br />- Nghĩa! Mầy đi ra ...<br /><br />Vừa nói ông vừa nắm lấy tay tôi lôi về phía cửa. Tôi bệu bạo:<br /><br />- Tôi ở lại cùng Thiếu Tướng!?...<span style="font-size:85%;"><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold"> (*)</span></span><br /><br />Sự dứt khoát của nghiêm lệnh hằng ngày trong giây phút xúc động mãnh liệt làm giọng Chuẩn Tướng lạc đi. Cái níu đẩy tôi ra ngoài, sự cọ xát ngắn ngủi đầy bi thương ấy khiến tôi có cảm giác mình như là thỏi sắt đang bị rút ra khỏi cục nam châm. Ôi! Cái chết hoàn toàn được sắp đặt trước, lần đầu tiên trong đời tôi mới chứng kiến. Tôi chợt oà khóc!<br /><br />Đứng bên ngoài, tôi và phu nhân tai còn vọng nghe tiếng rít cài then khô khốc từ bên trong. Bất giác, tôi và bà Tướng mọp người xuống nền gạch, cố đưa mắt nhìn vào khe hở dưới cửa. Mọi việc diễn ra không đầy 1 phút sau đó. Một tiếng nổ chát chúa vang lên bên trong cánh cửa. Tôi hoảng hốt ngưng khóc, đứng bật dậy. Với tiếng nổ đó, tôi đau đớn nhận rõ chắc chắn chuyện gì đã xảy ra rồi! Trong phòng không còn tiếng động nào. Tôi đưa tay thử lay động cánh cửa. Vô hiệu! Tôi lùi lại nhìn xuống phía chân cầu thang kêu lớn khi thấy có 3-4 cái đầu đang nhớn nhác nhìn lên (hình như có cả Thiếu Tá Phương):<br /><br />- Kiếm một con dao ... cạy cửa mau ...<br /><br />Người tài xế tên Giêng cầm con dao to, nhọn, chạy nhanh lên và đích thân nạy cánh cửa bật ra. Mọi người cùng ùa vào phòng. Tôi bàng hoàng khóc ngất. Tất cả cũng khóc và chạy đến chỗ giường ngủ của Chuẩn Tướng. Ông đang ngửa người, nửa thân trên nằm trên tấm nệm trải drap trắng, 2 cánh tay buông ngang, khuy cổ và ngực áo bung ra, màu máu tươi nhuộm thắm phần ngực trái chiếc áo thun trắng bên trong. Cả phần chân Chuẩn Tướng buông thỏng bên ngoài, 2 gót giày chấm đất. Có lẽ Chuẩn Tướng đã ngồi cạnh thành giường, 1 tay cởi 2 khuy áo trên, tay kia đưa nòng colt 45 ấn vào chỗ trái tim ...<br /><br />Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng ngay ngắn lại trên giường, gương mặt ông xanh tái, lấm tấm mồ hôi, miệng há, đôi mắt chưa khép, biểu lộ sự đau đớn cực độ. Vừa đặt đầu ông lên gối, bà Tướng vuốt mắt cho chồng ... Chuẩn Tướng đã yên nghỉ! Viên đạn oan nghiệt đã xuyên thật chính xác quả tim người anh hùng.<br /><br />Đứa con đầu lòng, Lê Uy Hải, lúc đó vừa tròn 6 tuổi, đã nhặt được đầu đạn đưa cho mọi người xem, rồi mím môi khép 5 ngón tay giữ chặt<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)"> “kỷ vật”</span>. Nhìn cử chỉ ấy, tôi nghĩ tuổi thơ ngây dại của cháu đã trôi qua mất kể từ buổi tối hôm nay rồi. Khoảng một tiếng đồng hồ trước đó hai anh em (em gái 3 tuổi) còn đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch cạnh phòng cha, hai đứa bé không hề hay biết lát nữa đây vành khăn tang trắng sẽ phủ lên tuổi ấu thơ hồn nhiên của mình.<br /><br />... Quả thật tôi chỉ biết rõ quãng đời của Chuẩn Tướng vào thời điểm Cần Thơ, thủ phủ Miền Tây, thật sự đã vô chủ. Cần Thơ gần như chỉ bước vào cuộc trong đêm 29-4. Mười giờ đêm, lúc tôi đang mơ màng, điện thoại từ T.O.C/ Quân Đoàn gọi sang trình Chuẩn Tướng diễn tiến tình hình: Các trực thăng từ Quân Đoàn 3 , từ Sài Gòn ... bay lẻ loi về miền Tây đáp bất kỳ nơi nào đáp được ... Tôi thức luôn tới sáng vì điện thoại gọi đến liên tục.<br /><br />12 giờ khuya, nghe có tiếng xôn xao ồn ào ngoài cổng dinh, tôi bước ra và nhìn thấy hàng dòng người cuồn cuộn tuôn trên đại lộ phía bên kia công viên. Cuộc diễu hành náo loạn như đang giữa ban ngày. Tôi kinh ngạc hỏi người lính gác cổng mới biết đó là đoàn người kéo nhau ra bến Ninh Kiều để lên tàu Hải Quân ... ra đi. Tôi ngỡ ngàng tự nhủ:<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)"> “Như vậy là Phó Đề Đốc Thăng tự động dẫn đoàn tàu của ông di tản ư?”</span> (Các lực lượng Không Quân, Hải Quân, lực lượng Đặc Chủng ở miền Tây đều nằm trong hệ thống điều động của BTL/ QĐ IV) Trong làn sóng người lục tục kéo đi, bất chợt tôi nhìn thấy xe của Chuẩn Tướng Chương Dzềnh Quây, Tham Mưu Trưởng QĐ IV. Tôi quay vào, gọi ngay cho Thiếu Tá Trưởng Toán Trực TOC hỏi ông có biết vụ nầy không, rồi vội vã lên lầu trình Chuẩn Tướng. Chính ông cũng đang thức như tôi, và bảo tôi gọi Đại Tá Trang, Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi để ông nói chuyện.<br /><br />Lúc đó đã 3 giờ sáng ngày 30-4. Tôi đã thấm mệt nhưng vẫn cố nhướng mắt chịu đựng. Giờ nầy giá có Phúc thì hết chê. Phúc khoẻ mạnh, tháo vát, giỏi giắn. Nhưng Trung Uý Phúc đang kẹt lại Sài Gòn sau một chuyến<span style="FONT-STYLE: italic"> “quá giang”</span> trực thăng về Sài Gòn, ngày trở lại đơn vị bằng đường bộ, quốc lộ Sài Gòn – Long An bị cộng quân cắt đứt với trận chiến dằn dai nhiều ngày, chưa khai thông được.<br /><br />7 giờ 30 sáng 30-4, tại phòng họp BTL, như thường lệ, Phòng 3 thuyết trình tình hình trong đêm vừa qua trước 2 vị Tướng và các quan chức. Lần nầy có vẻ nghiêm trọng về việc lực lượng Hải Quân Vùng 4 Duyên Hải bỏ đi, mang theo Chuẩn Tướng Tham Mưu Trưởng, Đại Tá Diệp, Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh (Cần Thơ), Thiếu Tá Chánh Văn Phòng Tư Lệnh, Đại Tá Đạt, Chánh Sở Hành Chánh & Tài Chánh Số 5.<br /><br />8 giờ 30 Đại Tá Thiên được cử tạm thời đảm trách chức vụ Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh.<br /><br />9 giờ 30 hai vị Tướng Lãnh gặp nhau trong phòng việc của Tư Lệnh Phó. Chuẩn Tướng bảo tôi gọi Chuẩn Tướng Lạc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 đang chỉ huy công cuộc giải toả quốc lộ Long An, nói ông khẩn dùng trực thăng bay về Bộ Tổng Tham Mưu để biết rõ tình hình thực tại. Trên đường bay, Tướng Lạc không bắt liên lạc được với không phận Sài Gòn, nên phải quay về. Chuẩn Tướng lại lệnh cho tôi gọi về Bộ TTM để ông gặp Tướng Trưởng Phòng 3. Tôi lạnh người khi nghe tiếng người tuỳ phái cho biết:<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(102,0,0)">“Tổng Tham Mưu hiện không còn ai. Các Tướng Tá, Sĩ Quan cao cấp đang ở tại cơ quan MACV của Hoa Kỳ”</span><br /><br />Tôi hiểu liền các vị ấy có mặt tại đó để làm gì! Sau vị nguyên thủ quốc gia (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu), B/TThM cũng đã lặng lẽ đóng cửa!... Và như vậy, có nghĩa là riêng QĐ IV phải tự lo liệu lấy. Buông ống điện thoại xuống, tôi đứng ỳ tại chỗ, một cảm giác tê buốt chạy dọc thân thể: <span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(102,0,0)">“Đất nước thực sự đã mất rồi!...”</span>. Tôi bước vào phòng trình tự sự lên 2 vị Tướng. Tôi thấy mắt Chuẩn Tướng hơi chùng xuống, rồi gật đầu tỏ ý không cần thêm gì nữa. Tôi bước ra ngoài, một nhân viên văn phòng trao chiếc radio và cho biết đài phát thanh Sài Gòn thông báo dân chúng đón nghe thông điệp khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh. Tôi quay trở vào phòng trình Chuẩn Tướng. Lúc nầy Thiếu Tướng Nam đã trở về phòng ông. Chuẩn Tướng vội vã rời phòng bước xuống bậc thềm hướng về toà nhà Tư Lệnh. 15 phút sau, tôi ghi vội nội dung lời phát biểu cuối cùng của Tổng Thống Minh, định sang trình 2 vị Tướng. Gặp Chuẩn Tướng đang bước xuống bậc tam cấp, tôi vừa trao tờ giấy vừa nói vắn tắt:<br /><br />- Tổng Thống Minh đã đầu hàng!...<br /><br />Chuẩn Tướng quày quã đẩy cửa vào Phòng Tư Lệnh. 15 phút sau, Chuẩn Tướng trở lại văn phòng mình và bảo tôi gọi để ông nói chuyện cùng 16 Tiểu Khu Trưởng. Đó là lệnh ban hành thiết quân luật trên toàn lãnh thổ Vùng IV kể từ giờ phút nầy. Các đơn vị dừng quân và bố trí tại chỗ chờ lệnh Quân Đoàn. Nếu nó<span style="FONT-STYLE: italic"> “bung”</span> thì làm lại liền. Thiếu Tướng Tư Lệnh cũng gọi cho 3 Tư Lệnh Sư Đoàn 7, 9 và 21.<br /><br />Mặc dù nhận rõ thông điệp của Tổng Thống Minh, nhưng hai vị Tướng Lãnh trách nhiệm sinh tử Vùng IV lúc nầy muốn ngăn trở những hỗn loạn có thể xảy ra trong cảnh tối tăm nầy. Chính vì vậy mà giờ phút nầy, Chuẩn Tướng vẫn liên lạc cùng Tướng Tần, Tư Lệnh Vùng IV Không Quân, hỏi ông về việc sử dụng bom CPU. Tôi không rõ chuyện thảo luận của 2 vị về việc nầy, nhưng 1 tiếng sau đó, sau khi rời phòng họp, Tướng Tần cùng các sĩ quan của ông đã lên các phi cơ rời căn cứ ... nối gót lực lượng Hải Quân!....<br /><br />Giờ phút nầy, tôi đang giúp Chuẩn Tướng điều chỉnh lại bộ dây ba chạc trên người ông, Chuẩn Tướng như đang trong tư thế đối đầu tại chiến tuyến. Cửa phòng xuỵt mở, 3-4 Đại Tá tất bật kéo nhau vào. Các vị nầy trong số 7 vị Đại Tá được Tư Lệnh Quân Đoàn đề cử vào chức vụ Phụ Tá Tư Lệnh Phó đặc trách về Xây Dựng & Bình Định, Địa Phương Quân & Nghĩa Quân ... Thấy điệu dạng họ như vậy, Chuẩn Tướng cười mỉm:<br /><br />- Các ông làm gì vậy? Tôi còn đây mà.<br /><br />Thì ra các vị đến để yêu cầu ông Tướng trình Tướng Tư Lệnh để họ được đảm nhiệm chức vụ Trung Đoàn Trưởng, lấp chỗ các vị đã tự ý rời nhiệm. Tôi ngầm hiểu ý nghĩa về việc yêu cầu đó: Thông thường các Trung Đoàn Trưởng được cấp trực thăng C & C sử dụng trong ngày. Tôi được biết Đại Tá Bùi Huy Sảnh, Trung Đoàn 33 cũng vừa rời bỏ chức vụ. Chẳng biết ông có di tản được không?<br /><br />Ban hành thiết quân luật, Vùng IV đang có vẻ chuẩn bị đối phó với tình hình hơn là treo cờ hàng. Ngay khi hay tin Sài Gòn thất thủ, chợ búa, hàng quán được dân chúng Cần Thơ mua vội bán vội, cố thu xếp nhanh chóng trở về nhà, vẻ mặt ai nấy đều lo âu. Xe lướt nhanh hơn, người đi bộ gần như chạy, đường phố như chuẩn bị đón cơn mưa lớn.<br /><br />Sau bức thông điệp đầu hàng của Tổng Thống Minh, mọi liên lạc viễn thông với Sài Gòn đều bị cắt đứt. Chúng tôi không biết gì về tình hình Thủ Đô. Tuy vậy, cho đến trưa, tình hình Cần Thơ và 16 tỉnh lỵ vẫn yên tĩnh, chưa có bóng dáng một nhóm cộng quân nào vào các Thị Xã. Các Tiểu Khu vẫn còn liên lạc tốt với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn.<br /><br />Buổi cơm trưa thật lạnh lẽo, tôi không thấy đói, nuốt vội qua loa, rồi để nguyên binh phục, kể cả giày, ngả lưng trên giường. Tôi biết, kể từ giờ phút nầy, biến cố sẽ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Buổi sáng, tôi đã tự ý gọi Đại Đội Trưởng Tổng Hành Dinh yêu cầu cho đổ đầy xăng chiếc Jeep Tư Lệnh Phó, xe tôi, xe Ford Custom mang số ẩn đế dùng cho gia đình Chuẩn Tướng. Cho tới giờ phút này, tôi chưa hề được Chuẩn Tướng ra lệnh lạc nào cả ...<br /><br />13 giờ, chúng tôi trở vào Bộ Tư Lệnh, cách tư dinh Tư Lệnh Phó độ 300 mét. Tôi thấy xe Falcon đen cũng đưa bà Tướng cùng 2 con rời cổng dinh. Tôi hơi ngạc nhiên và lo lắng ... Có tiếng ồn ào phía Phòng 2 Quân Đoàn: Một núi giấy tờ đang được đốt cháy ngùn ngụt. Có lẽ các hồ sơ quan trọng được thiêu huỷ? Tôi không rõ Đại Tá Trưởng Phòng có còn đó không, và việc thiêu huỷ giấy tờ nầy do lệnh của ai? Tôi cũng không rõ giờ phút nầy có còn đủ các Trưởng Phòng không? Chuẩn Tướng cũng không gọi đến vị Trưởng Phòng nào, ngay cả Trung Tá Tòng, Trưởng Phòng 3 ! Tôi tự hỏi,<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)"> “Trong tình huống nầy, 2 vị Tướng có còn chỉ huy cấp dưới được nữa hay không?”.</span> Khuôn viên Bộ Tư Lệnh vắng ngắt, nghẹt thở.<br /><br />14 giờ 30, Chuẩn Tướng lại trở về tư dinh. Ông bước lên bực thềm, nhưng không bước vào trong như mọi khi, mà đứng tại hiên tiền đình, nhìn mông lung ra khoảnh sân phía trước. Tôi đứng bên trái Chuẩn Tướng, cách vài bước, hơi chếch phía sau, hướng tầm mắt theo ông. Mới vào Hè mà cảnh vật như đã Thu, Đông. Trời chiều ảm đạm, thê lương, từng mảng mưa bụi lạnh lẽo thả xuống tàn phượng vĩ đang nở hoa đỏ ối giữa sân, thêm hình ảnh bất động của Chuẩn Tướng trước mặt, tất cả mang đến cho tôi một cảm giác u-buồn, tan tát ... Bất chợt, Chuẩn Tướng quay lại hỏi tôi:<br /><br />- Cô đi đâu?<br /><br />- Thưa, cô đến nhà thờ xin lễ rửa tội.<br /><br />Vừa lúc đó cửa cổng dinh mở toang, chiếc Falcon trườn vào. Tôi thở ra nhẹ nhõm.<br /><br />Mấy ngày nay, tình hình chiến sự, tình hình đất nước đen tối như vậy, mà người thợ may riêng không ngớt giải quyết mớ vải vóc mới tinh cho bà Tướng cùng thân quyến. Bây giờ lại đi xin rửa tội. Tôi không bao giờ nghĩ ra chuyện ông bà Tướng đã âm thầm cùng bàn bạc chuẩn bị cái chết cho toàn gia đình. Và phần bà đã dọn mình bằng chính cung cách riêng của bà. Bà muốn khi từ giãả cõi đời sẽ cùng con cái được đón nhận là con chiên của Chúa, và bước vào áo quan với bộ đồ mới tinh, trong trắng ... Nhưng vào phút cuối cùng, khi nhìn thấy 2 con thơ dại, Chuẩn Tướng thay đổi ý và nằn nì bà ở lại đùm bọc 2 con.<br /><br />Buổi sáng, ngay sau khi bản thông điệp của Tổng Thống Minh vừa dứt, bà Tướng gọi sang văn phòng bảo tôi tìm cho bà càng nhiều càng tốt thuốc varium 5mg. Bà Tướng vốn bị bệnh mất ngủ đã nhiều năm, nên việc bà cần loại thuốc nầy không có gì đặc biệt, tôi nghĩ vậy. Nhưng khi gọi cho Trung Tá Lưu, Liên Đoàn Trưởng 74 Quân Y, ông khuyên tôi đừng nên can dự vào, để lương tâm khỏi bị ray rứt sau nầy. Rốt cuộc tôi xuống trạm xá Quân Đoàn và người sĩ quan trợ y đã dốc hết số thuốc còn lại trên trăm viên. Bà Tướng nhận số thuốc rất điềm nhiên trước giờ đi nhà thờ xin lễ rửa tội.<br /><br />Gương mặt Chuẩn Tướng thoáng chút rạng rỡ khi thấy vợ con về đến dinh an toàn. Ông bước đến bên xe đón bà, trao đổi vài lời rồi lên xe trở lại Bộ Tư Lệnh.<br /><br />Đã 3 giờ chiều. Tôi được biết có cuộc hẹn gặp gỡ thảo luận về việc tiếp thu Cần Thơ giữa BTL/QĐ IV với đại diện của phía cộng quân. Mọi sự sẽ diễn ra tại văn phòng Tư Lệnh. Tôi không rõ ngoài 2 vị Tướng còn có những ai khác, phía cộng quân bao nhiêu người và ai đã thảo ra văn bản để đôi bên cùng đồng ý ký kết.<br /><br />16 giờ, Chuẩn Tướng rời Bộ Tư Lệnh và đây là lần hiện diện cuối cùng của ông tại bản doanh nầy. Xe chúng tôi vừa ra khỏi cổng chánh, ông ra hiệu dừng lại và bước xuống xe xem coi chuyện gì xảy ra ở phía trước. Bên kia đường, đối diện vòng đai và cổng chánh Bộ Tư Lệnh có rất nhiều thanh niên, kẻ quần tây, người quần đùi ở trần đang nối đuôi thành hàng dài phóng chân rảo nhanh. Tôi ra hiệu cho anh quân cảnh sang bên kia đường đón chận hỏi 1 người trong số họ. Thì ra những thanh niên nầy thoát ra từ trại Tuyển Mộ Nhập Ngũ đã bỏ ngỏ. Giờ phút nầy có lẽ không gì thần tiên bằng là họ đang được trở lại nhà. Hèn gì họ vừa chạy vừa biểu lộ vẻ vui mừng rối rít. Nhìn cảnh tượng trước mắt, tự dưng tôi thấy dâng lên trong lòng nỗi cô độc, trống vắng làm sao! Hình như chỉ còn mỗi một xe jeep chúng tôi độc hành trên con đường ngắn quen thuộc, mà giờ đây như xa lạ và dài lê thê ra ...<br /><br />Đến ngã tư nơi tiếp giao giữa Bộ Tư Lệnh với dinh Tư Lệnh Phó và dinh Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh, Chuẩn Tướng ra hiệu dừng xe. Ông bước xuống, đứng nhìn bao quát, có vẻ như đang sắp xếp một thế trận. Tôi nhìn ra 4 phía lộ, và nhận ra vẻ trống vắng rờn rợn. Lác đác vài xe gắn máy, xe thồ, xe đạp đang hối hả gò lưng. Cả một góc phố thoi thóp, im ỉm khiến tôi liên tưởng đến những đoạn film có cảnh tương tự: Les Sept Mercenaires, O.K Coral ... thời còn đi học. Bỗng từ phía chân cầu Nhị Kiều xuất hiện một chiếc xe jeep đang theo đại lộ Hoà Bình lao nhanh về phía chúng tôi. Chiếc jeep dừng lại cạnh xe Chuẩn Tướng. Người ngồi trên xe là Tướng Mạch Văn Trường, tân Tư Lệnh Sư Đoàn 21. Ông là 1 trong vài vị Tư Lệnh được Tổng Thống Thiệu ra sắc lệnh thăng cấp trước khi lên phi cơ rời Việt Nam. Tướng Trường xuống xe trình Tướng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn điều gì tôi không nghe được, nhưng với vẻ hấp tấp và gương mặt đầy lo âu, cộng với tình hình trước mặt, tôi đoán chắc Bộ Tư Lệnh của ông hiện đã tan rã. Chuẩn Tướng bảo Tướng Trường theo ông về dinh.<br /><br />Tại phòng khách, hai vị cùng ngồi trên ghế <span style="FONT-STYLE: italic">“canapé”</span>. Với giọng nói cứng cỏi, quả quyết, ông nói với Tướng Trường rằng giờ nầy ông chỉ huy. Ông bảo Tướng Trường cùng Trung Tá Thành, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh đến đóng bản doanh tại dinh Tiểu Khu Trưởng. Chuẩn Tướng bảo Trung Tá Thành lệnh cho 2 Chi Đoàn thiết vận xa M.113 đang ở vùng quận lỵ Bình Minh lập tức quay về Cần Thơ và cho người đến tận bến phà lệnh cho toán chuyển vận phải túc trực ưu tiên chở đoàn thiết vận xa vượt sông. Ra lệnh xong, Chuẩn Tướng đứng lên, vào phòng rửa mặt trong lúc Tướng Trường vội vã ra xe đến dinh Tiểu Khu Trưởng.<br /><br />Đèn phòng vừa bật sáng, tôi nhìn ra cửa sổ, bóng tối đã nhợt nhòa ngoài sân. Phía cuối phòng, bà Tướng và gia đình đã ngồi vào bàn ăn, có vẻ vẫn an bình như mọi bữa cơm tối hằng ngày. Người lính phục dịch đặt trên bàn tiếp khách, chỗ Chuẩn Tướng đang ngồi, 1 cái dĩa, muỗng và 2 trứng gà ngâm trong ly nước sôi.<br /><br />Tôi đứng cạnh bàn viết đặt sát cửa sổ phòng khách, trên bàn có 2 máy điện thoại: 1 tự động và 1 qua tổng đài viên. Tối nay tôi tăng cường thêm 1 PRC 25 mở tần số của BTL/SĐ 21 và Thiết Đoàn 9 để liên lạc, theo dõi. Hình như hệ thống truyền tin của Bộ Tư Lệnh đã ngưng hoạt động từ 17 giờ, vì tôi gọi không có tiếng tổng đài viên trả lời. Còn máy tự động dường như bị cắt. Lúc nầy, Thiếu tá Trịnh Đức Phương, nguyên Chánh Văn Phòng, cũng từ dưới phòng anh bước lên đứng phía trái Chuẩn Tướng. Cả 3 chúng tôi im lặng, hồi hộp nhìn về phía màn hình TV vẫn sáng trong, im ỉm.<br /><br />Phái đoàn 2 bên rời BTL/Quân Đoàn đã gần 2 tiếng đồng hồ và chính lúc nầy là giờ quy định phát thanh. Chúng tôi không phải chờ đợi lâu thêm. Có tiếng nói vọng ra từ TV, tự xưng là phát ngôn viên của BTL/QĐ và đọc văn bản thông báo<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)"> “BTL đã đầu hàng. Các đơn vị phải buông trao vũ khí ...”</span> Bản văn vắn tắt, nhưng thật rõ ràng, đầy đủ. Nghe đọc bản văn như vậy, tất cả chúng tôi, những người hiểu rõ nội dung bản văn chung trong phiên hợp 2 bên đều chết điếng: Đây không phải là bản văn đã được 2 bên thoả thuận ký kết. Lập tức Chuẩn Tướng bảo tôi chuyền máy PRC 25 đến chỗ ông ngồi, đích thân ông cầm ống liên hợp gọi<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)"> “Hổ Cáp”</span> (danh hiệu Trung Tá Thành trong đặc lệnh truyền tin) bảo ông Thành dùng M 113 lái đến dinh để đi cùng Chuẩn Tướng đến đài phát thanh. Nghe đến đó, tôi lùi một bước về phía cửa, ra hiệu cho Trung Sĩ Sao (cận vệ) chuẩn bị sẵn sàng để di chuyển. Tôi trở lại chỗ cũ vừa kịp nghe lời đáp của Trung Tá Thành vang lên trong loa khuếch đại. Lời lẽ vẫn còn mang vẻ lễ độ của một cấp thừa hành, nhưng rõ ràng đó là lời từ chối thi hành lệnh. Thật khó đoan chắc có lực lượng đáng kể nào của cộng quân đã có mặt ở Thị Xã Hay Bộ Tư Lệnh chưa, nhưng với văn bản vừa phát ra, chắc chắn sẽ hung hiểm vô cùng nếu tự nhiên xuất hiện một chiến xa rầm rộ di chuyển trong đường phố lúc nầy. Tôi tin rằng Chuẩn Tướng hiểu rõ điều đó. Trong cảnh biến động nầy, tuy lòng có lo âu, sợ hãi, nhưng nhìn thấy đức tính gan dạ, bất khuất của ông, như là dũng tướng tới bước đường cùng vẫn tả xung hữu đột, tôi khâm phục ông xiết bao! Với tinh thần tự nhận trách nhiệm tối cao, hai vị Tướng Lãnh muốn quân nhân phải được bảo đảm an toàn, ít nhất cũng cho những binh sĩ khi họ không còn được quyền cầm vũ khí trong tay nữa. Sau bản thông điệp của Tổng Thống Minh, có ai biết được chắc chắn về số phận của những đơn vị trước đó đang trực tiếp giao tranh ác liệt cùng các lực lượng cộng quân và rồi bỗng dưng họ phải buông súng trong cơn hận thù còn sôi sục của đối phương?<br /><br />Đang miên man nghĩ suy, tôi giựt mình khi điện thoại reo vang. Nhấc ống nghe lên, tôi vội chuyển liền cho Chuẩn Tướng khi nhận ra giọng trầm trầm, chậm rãi của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Có lẽ Thiếu Tướng hỏi Chuẩn Tướng về bản văn phát thanh vừa rồi. Tôi nghe Chuẩn Tướng trình bày là mọi việc đã giao cho Đại Tá Sáu, ThMPh/ ChTrChTr/QuĐ đại diện cùng đi với phe cộng quân. Vì sao bản văn chung bị tráo? Và tình trạng Đại Tá Sáu ra sao chỉ duy nhứt Đ/T Sáu biết mà thôi. Tôi không nghe Chuẩn Tướng báo với Thiếu Tướng chuyện ông tính đến đài phát thanh mà không thành. Cuộc điện đàm giữa 2 vị Tướng kết thúc. Buông ống liên hợp xuống, Chuẩn Tướng thừ người, ngồi bất động. Lần đầu tiên tôi nhận ra vẻ mệt nhọc tuyệt vọng trên gương mặt ông. Chỗ dựa cuối cùng đối với đơn vị và những đàn em thân tín mà ông từng chỉ huy giờ đã bật gốc. Trong một cử chỉ buông xuôi, Chuẩn Tướng đưa 2 tay về phía trước, bằng một giọng nói oai mãnh, bất khuất ông đã quất về phía tôi và Thiếu Tá Phương một tràng lanh lảnh và đanh thép, khiến tôi rụng rời, vì biết sắp phải xa ông, vị Tướng tôi luôn kính quý. Tôi cúi đầu lặng thinh, cả một khoảnh khắc chơi vơi để 3 chúng tôi mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng ...<br /><br />Chuẩn tướng đứng lên bảo tôi tập hợp toán lính gác để ông nói chuyện. Thượng Sĩ Trưởng Toán Tiểu Đội bảo vệ dinh Tư Lệnh Phó tập hợp quân thành 2 hàng bên hông dinh. Bằng một giọng cảm động, chân tình, Chuẩn Tướng cám ơn họ đã vẫn ở bên ông đến giờ phút cuối cùng nầy và bảo anh em bây giờ ai muốn rời dinh cứ tuỳ ý ... Bỗng có tiếng người lính gác ở trên cao báo động có xe cộng quân đến. Lập tức Chuẩn Tướng chạy vào trong nhà. Tôi hô toán cận vệ vào vị trí, rồi xách máy PRC 25 theo ông lên lầu. Chuẩn Tướng vào phòng ngủ rồi trở ra với khẩu XM 18 trên tay, chạy ra bao lơn, nằm xuống nhìn ra phía đường. Lúc nầy tôi mới nhận ra đường phố đang tối thui. Điện toàn bộ Thị Xã bị tắt ngúm. Như vậy điện trong dinh hiện có là do đường dây từ máy phát điện riêng của BTL/QuĐ. Trong bóng đêm u-uất đó, 2 vệt sáng rực phát ra từ 2 đèn pha chiếc xe jeep vừa rời cổng dinh Tiểu Khu, quét thẳng về phía chúng tôi trông thật ghê rợn. Nhưng khi ra đến ngã tư, ánh đèn lại rẽ trái theo đại lộ Hoà Bình hướng về BTL/QuĐ. Họ không đến chỗ chúng tôi. Chuẩn Tướng đứng lên, lùi trở về phòng. Tôi dùng máy PRC 25 thử gọi danh hiệu của Tướng Trường và Trung Tá Thành. Gọi 3-4 lần vẫn khong có tiếng đáp lại. Có vẻ như hệ thống máy đầu bên kia đã ngưng. Chắc chắn phải có biến cố bên dinh tiểu Khu Trưởng, chỗ Tướng Trường và Tá Thành đến đóng bản doanh hồi chiều. Dinh TKhTr và dinh TLPh chỉ cách nhau hơn 300m thôi, nếu có tiếng súng nổ chúng tôi phải nghe được, nhưng sự việc máy không còn mở túc trực chứng tỏ tình trạng Tướng Trường rất bi quan. Có thể ông và Trung Tá Thành đã bị bắt. Và như vậy tình hình trong dinh chúng tôi cũng rất nguy ngập, không rõ địch sẽ xuất hiện lúc nào. Có lẽ Chuẩn Tướng thấy rằng thì giờ đang rất cấp bách, nên ông bước đến đẩy cửa vào phòng bà. Và đây chính là giờ phút ông thuyết phục bà cần phải sống. Hai cháu bé đang vô tư đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch lối ra bao lơn. Tôi trở xuống nhà để tìm gặp, dặn dò toán gác. Thật ra tìm họ cũng là để tự trấn an mình.<br /><br />10 phút sau, Chuẩn Tướng gọi tôi lên lầu gặp ông. Tại đây tôi thấy ngoài tôi và Thiếu Tá Phương, còn có đông đủ những binh sĩ đã từng phục dịch Chuẩn Tướng cùng gia đình rất lâu năm. Chuẩn Tướng đứng tại phòng ngủ, hai cánh tay ghì chặt đứa con gái 3 tuổi để cho đầu cháu tựa vào má ông. Bà Tướng đứng bên cạnh. Hai bàn tay măng non của cháu bé hồn nhiên lùa vào mái tóc cha làm loả xoả vài lọn tóc rối trên trán Chuẩn Tướng. Bức tranh bi thảm ấy khiến lòng tôi ngậm ngùi tê cứng. Bằng giọng nói tha thiết, ân cần, Chuẩn Tướng gởi lại bà cùng 2 con cho chúng tôi. Ông quả quyết từ giờ cho tới sáng sẽ không có chuyện gì xảy ra, bảo chúng tôi cố gắng hộ tống bà cùng gia đình về Sài Gòn rạng sáng ngày mai, 1-5. Đó là lời uỷ thác cuối cùng của Chuẩn Tướng. Dù đã từng xông pha bao chiến trận, nhưng trong giờ phút tử biệt nầy, Chuẩn Tướng không nén được nỗi uất nghẹn trong lời nói. Ông lấy lại trầm tĩnh thật nhanh, quát bảo tất cả trở xuống dưới nhà, chỉ còn mình tôi và bà Tướng ở lại. Để rồi giây phút vĩnh quyết đã đến!...<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Hồi Kết</span><br /><br />Lúc đó đã 9 giờ đêm 30-4. Chúng tôi xúm quanh giường ngủ giúp bà Tướng lau rửa thân thể, thay y phục cho ông. Chừng đỡ lưng Chuẩn Tướng lên, mọi người lại đau lòng rấm rứt khóc khi thấy vẫn còn máu tươi rỉ ra chỗ viên đạn thoát ra khỏi thân thể ông. Chuông điện thoại lại reo lên. Tôi lật đật mời bà Tướng tiếp chuyện với Thiếu tướng Tư Lệnh. Bà sụt sùi báo tin Chuẩn Tướng đã ... ra đi ... Cuối cùng bà nghẹn ngào cảm ơn Thiếu Tướng Tư Lệnh đã gọi đến thăm hỏi, an ủi bà ... Để rồi ... 8 tiếng đồng hồ sau, lúc 5h30 sáng ngày 1-5, hai vị Tướng cao cấp nhất lãnh thổ vùng IV cùng gặp được nhau ở bên kia thế giới, với cùng ý chí<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(102,0,0)"> “Tướng phải chết theo thành”</span><br /><br />Chuông điện thoại lại reo. Tôi nhắc ống nghe lên, giật mình khi nhận ra tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện. Giọng ông thật khẩn cấp, ông cần nói chuyện với Tướng Tư Lệnh Phó. Tôi quyết định nhanh trong trí, <span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">“Không cho Đại Tá biết Chuẩn Tướng đã tuẫn tiết!” </span>Tôi nghĩ, hệ thống điện thoại đã bị ngắt hoặc do đơn vị nầy đã bỏ nhiệm sở từ chiều, không lý gì bây giờ lại tái lập? Chắc cộng quân đã chiếm đóng và đang kiểm soát các cuộc điện đàm ... Sau nầy khi hồi tưởng lại, tôi mới thấy mình thật ngu khờ: Chỉ vì muốn bảo toàn thi hài Chuẩn Tướng mà tự ý trả lời Đại Tá Cẩn là Chuẩn Tướng đang bận chỉ huy các đơn vị nên không thể rời máy tiếp chuyện Đại Tá được. Tôi nghĩ chỉ có cách đó mới ngăn được Đại Tá, để ông không đòi gặp Chuẩn Tướng nữa. Tôi còn tự ý trả lời <span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">“Lệnh của ông Tướng truyền đi hồi sáng vẫn không thay đổi”</span> khi Đại Tá hỏi đến điều nầy. Hậu quả là Đại Tá tiếp tục cho Tiểu Khu mình tử thủ, để rồi ông bị bắt, sau đó đưa về Cần Thơ và Cộng quân đã đưa Đại Tá ra xử bắn trước đám đông dân chúng. Trong lúc chỉ huy chiến đấu, <span style="COLOR: rgb(102,0,0); FONT-WEIGHT: bold">Đại Tá Cẩn đã bị thuộc hạ của mình phản trắc, khống chế từ sau lưng</span>. Tôi tin rằng chính vì vậy mà ông không kịp thực hiện được hành động can trường như Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó và Thiếu Tướng Tư Lệnh đã làm, khi Tiểu Khu thất thủ, mà đành để bị bắt sống. Ông vốn là Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 9 tăng viện chiến trường An Lộc mùa hè 72, được vinh thăng Đại Tá và trở thành Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện sau đó. Pháp trường của kẻ thắng càng tô đậm thêm ý chí hiên ngang, bất khuất của người dũng sĩ trước mũi súng quân thù. Tổ quốc sẽ mãi mãi ghi nhớ ơn Ông cùng những người, cho dù là hàng binh sĩ, trong những giờ phút nầy vẫn còn ngả gục và thắm máu đào trên khắp đất nước non sông.<br /><br />Có tiếng rè rè từ máy PRC 25 và loa khuếch đại vang lên tiếng gọi danh hiệu Chuẩn Tướng. Tôi nhìn lại bản đặc lệnh truyền tin và nhớ ra giọng nói của Thiếu Tá Điệp, Tiểu Đoàn Trưởng 1/31 đang trong vùng hành quân thuộc quận Bình Minh, chắc anh không liên lạc được với Bộ chỉ huy Trung Đoàn và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, nên mới gọi thẳng về Chuẩn Tướng. Tôi báo cho Thiếu Tá Điệp biết chuyện của Chuẩn Tướng và cầu chúc anh may mắn. Trong đêm nay còn bao nhiêu đơn vị đang trong tình trạng bơ vơ, lạc đàn như Tiểu Đoàn của anh, kêu gọi cấp chỉ huy trong vô vọng và đành chờ đợi ánh bình minh để nhận lãnh số phận mình ... Từ đó tôi quyết định tắt hẳn máy PRC 25.<br /><br />Tôi bước trở lại phòng Chuẩn Tướng và nhìn thấy ông ngời sáng trong bộ lễ phục với đầy đủ quân hàm trên 2 cầu vai, cùng dây biểu chương, huy chương. Bà Tướng đang xếp gấp tư lá cờ vàng ba sọc đỏ và lần tay mở nút áo đặt lá cờ ngay ngắn chỗ phần ngực ông. Xong xuôi, bà ngước lên nói cùng tôi, bà mong muốn lễ tang Chuẩn Tướng được tổ chức đúng lễ nghi quân cách. Tôi gật đầu im lặng. Trong bối cảnh nầy, tôi thấy mình cần phải tận lực giúp đỡ bà, còn việc thành bại là hướng sắp tới.<br /><br />Trời đã khuya, chỉ còn độ ơ tiếng nữa là sang ngày hôm sau. Thân nhân của Chuẩn Tướng vẫn còn đó cạnh ông. Có lẽ cũng không ai nhắm mắt được đêm nay. Tôi đến cầu thang, trở xuống nhà dưới, theo cửa sau vòng ra sân với đầu óc trĩu nặng lo nghĩ.<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)"> “Khi hay tin Chuẩn Tướng tuẫn tiết, liệu bọn Cộng Sản có chấp nhận để yên cho mai táng ông không, mai táng bình thường thôi, chớ chưa nói đến chuyện đúng lễ nghi quân cách? Hay là đêm nay mình tìm nơi an táng ông chính tại trong khuôn viên dinh?...” </span>Tôi lắc đầu, bỏ ý nghĩ đó và dừng lại chỗ cuối sân, nhìn ra cổng sắt. Đêm đen ghê rợn trùm phủ vạn vật. Trời tối đến độ tôi không nhận ra cánh cửa cổng. Còn vọng gác thì im sửng trên cao, không biết có còn người gác hay không? Sự im lặng chết chóc khiến tôi hoảng sợ đứng ỳ tại chỗ, không dám nhích tới. Tôi có cảm giác đang bị bao vây, rình rập, dòm ngó từng động tác. Tôi trở gót, theo cửa sau, bước lên phòng khách nhìn quanh quẩn, nơi đây cũng tối om, chỉ có chút ánh sáng của ngọn đèn trên lầu hắt xuống cầu thang cho tôi nhìn rõ nhà dưới trống vắng, không còn người lính phục dịch nào ở đó. Tôi quyết định nghỉ lại nơi đây. Đêm nay nếu có sự kiện gì xảy ra từ phía ngoài vào, tôi sẽ là người đón nhận, hay biết trước tiên. Trong bóng đêm cô tịch, tôi ngồi nhớ lại những việc vừa xảy ra, tất cả nhanh chóng kết thúc, tưởng chừng như một giấc chiêm bao! Sự đời như bọt nước bèo trôi, tụ rồi tan, mới hạnh phúc đó đã tan vở, mới cười vui đó đã ôm ra khóc. Lòng tôi bỗng chơi vơi rung động nhớ lại lời nói ôn nhu của Trung Tá Nghiêm, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chánh Trị Sư Đoàn 21, khi ông giới thiệu một pháp môn tu thiền cho tôi vào những ngày cuối năm 73 tại văn phòng Tư Lệnh ở Chương Thiện. Sự thôi thúc dâng lên kỳ lạ, tôi xúc động ngồi lại ngay ngắn, chắp tay trước ngực, tâm thành khẩn hướng vọng đến đức thầy Lương Sĩ Hằng, xin ông nhận tôi là môn sinh. Từ đó đến nay đã 24 năm trôi qua, không ngờ nỗi đam mê với môn học nầy, tôi vẫn tiếp tục đeo đuổi và tôi tin chắc sự ổn định được đầu óc nhờ hành thiền, đã giúp tôi viết lại bài anh hùng ca nầy một cách tuần tự, rõ ràng, nhớ rõ như mọi chuyện mới vừa xảy ra.<br /><br />Sau đó tôi nằm xuống và tạm quên được mọi việc và chìm trong giấc ngủ. Lúc tôi trở giấc, trời vẫn còn tối, lòng tôi lại nặng trĩu khi đối diện với thực tại. Tôi bước ra sau, về phòng mình, gấp rút lo việc cá nhân khi thấy kim đồng hồ đã chỉ gần 5 giờ sáng.<br /><br />Tôi trở lên lầu, gặp Thiếu Tá Thuyên, Phụ Tá Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn, đang đứng cạnh giường Chuẩn Tướng thút thít khóc. Anh vừa mới đến. Như vậy, tin về Chuẩn Tướng trong đêm đã lan truyền ra ngoài. Sự tao ngộ cũng thật vội vàng, ngắn ngủi. Anh rời dinh liền sau đó, lúc trời vẫn còn mờ tối. Đó là vị sĩ quan duy nhất của BTL/QĐ đã đến nghiêng chào trước thi hài Chuẩn Tướng. Tôi bàn định cùng bà Tướng lo thu xếp những gì cần thiết mang đi, đề phòng trước, nếu bị buộc phải rời dinh. Thâm tâm tôi nghĩ đến người bạn chí thân hồi cùng ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 31, Trung uý Nguyễn Vĩnh Thành. Mấy năm nay Thành đã thuyên chuyển về Sở Hành Chánh & Tài Chánh Số 5 và cùng gia đình đang ở Cần Thơ, nhờ vậy chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Hiện tại chắc chắn tôi phải nhờ Thành rất nhiều. Trong lúc chờ trời sáng, tôi bàn với Thiếu Tá Phương là anh đảm trách phần việc tại dinh, còn tôi ra ngoài tìm Thành và đi mua quan tài. Lúc tôi tiến đến cổng chuẩn bị ra ngoài, tôi sững sờ khi thấy thái độ của mọi người, trong ánh mắt của họ, tôi đọc được nỗi hoang mang nghi ngại: Họ đánh giá tôi một ra khỏi đây, không bao giờ trở lại!<br /><br />Lúc đó gia đình Chuẩn Tướng còn ở trên lầu. Tôi mở hé cánh cổng để vừa đủ đi qua, mắt tôi nhìn thấy Đại Tá C. một trong những Phụ Tá của Tư Lệnh Phó đang đứng nơi công viên Hoà Bình nhìn về phía cổng ra vào. Khi thấy tôi đã nhận ra ông, Đại Tá lật đật rảo bước, may mà tôi chưa kịp gọi ông! Tôi vòng bên trái dinh, theo đường tắt rảo bộ đến nhà Thành. Tôi bỗng mừng rỡ khi thấy Đại Tá Vinh đang hàn huyên cùng với 3-4 người tại trước cổng BTL/Đặc Nhiệm 4 của ông (Chức vụ cùng danh xưng có tính cách điều hành nội bộ của BTL/QuĐ IV do Tư Lệnh đề ra, phần lớn nhằm giải quyết số sĩ quan cao cấp “ối động” tại BTL). Tôi thầm ngợi khen ông trông vẫn tỉnh táo và trẻ trung trong bộ áo quần thường dân. Trong buổi sáng hôm nay, không hẹn mà tất cả chúng tôi đều mặc thường phục, hoà nhập vào lớp thường dân. Gặp được Đại Tá, tôi đặt thẳng vấn đề Chuẩn Tướng đã chết và bà Tướng muốn chôn ông đúng theo lễ nghi quân cách, xin Đại Tá với tư cách một sĩ quan cao cấp, đến gặp họ (CS) để nói giúp. Tôi tưởng đã giải quyết được một gánh nặng to lớn khi Đại Tá Vinh đoan quyết đó là trách nhiệm của ông trong lúc nầy.<br /><br />Đến nhà cha mẹ vợ Trung Uý Thành, tôi thật sự cảm động khi thấy mọi người trong gia đình đều ùa ra đón tôi. Tất cả đã biết tin Chuẩn Tướng tuẫn tiết, nên rất lo cho số phận của tôi. Tôi kể sơ cho mọi người biết Chuẩn Tướng chết như thế nào, trước đó ông dặn dò điều gì, và tôi đang rất cần được giúp đỡ để thực hiện lời ủy thác của người chết. May mắn là nhà Thành có khoảng sân khá rộng, tôi xin được gởi chiếc Falcon và chiếc jeep sơn màu xanh với số ẩn tế dân sự. Chuyện gia đình Thành chấp nhận giữ 2 chiếc xe giúp tôi giữa lúc đen tối nầy là một hành động can đảm, như chấp nhận một bản án, nếu có người tố giác (mà lúc đó thiếu gì bọn ba-mươi-tháng-tư) Tôi biết như vậy, nhưng trong cơn nguy cấp, tôi không có cách nào hơn, đành phải nhờ Thành. Rất may là những ngày sau đó, khi chúng tôi đã rời Cần Thơ, biết tin gia đình Thành vẫn yên ổn. Viết lại những dòng nầy, tôi luôn ghi nhớ tấm lòng của cả hai bên gia đình Trung Uý Thành đối với gia đình Chuẩn Tướng.<br /><br />Tôi cùng Thành lên chiếc vespa của anh đi đặt mua chiếc quan tài, rồi trở lại Sở của anh. Do ý của Thành, tôi tìm gặp Trung Tá Bia, Phụ Tá Chánh Sở Hành Chánh & Tài Chánh số 5 để nhờ ông chỉ dẫn và giúp lo việc tẩn liệm Chuẩn Tướng. Ông đang thay Đại Tá Chánh Sở hiện vắng mặt, chờ đợi người của Cộng Sản đến để bàn giao. Trung Tá hứa là ông sẽ đến liền sau khi xong việc ở đây và căn dặn tôi chuẩn bị những thứ gì cho việc tẩn liệm. Tôi cùng Thành hướng xe về phía chợ. Khác với ngày 30-4, buổi sáng hôm nay, 1-5, Thị Xã Cần Thơ thật ồn ào, rộn rịp. Gần như mọi nhà đều có người đổ xô ra đường, có nhiều con lộ bị nghẹt cứng. Dân chúng đi bộ tràn ra cả lòng đường, chúng tôi phải xuống xe dẫn bộ, len lỏi tìm lối vượt qua. Tôi chợt nhìn thấy Trung Uý Việt, Tuỳ Viên Tư Lệnh đang đứng trong sân nhà của Trung Uý Minh, sĩ quan Quân Sử BTL, tôi lật đật kéo Thành tấp vào. Gặp Việt, tôi hỏi ngay tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Buổi sáng, trước khi rời dinh, một hạ sĩ quan văn phòng đã đến trao cho tôi tờ giấy ghi tên họ của tôi đã<span style="FONT-STYLE: italic"> “đăng ký trình diện” </span>và cho tôi biết tin Thiếu Tướng Nam cũng đã tự sát. Tôi hỏi lại và được Trung Uý Việt xác nhận điều đó. Anh còn cho biết thêm, xe cứu cấp Quân Y Viện Phan Thanh Giản do anh và Trung Uý Danh gọi đã đến và mang Tư Lệnh về QuYV trong tình trạng hấp hối. Việt kể, lúc đó khoảng 5 giờ sáng, Thiếu Tướng đang ở dưới hầm, ông bảo 2 tuỳ viên lên nhà, rồi dùng colt tự sát khi ông còn lại một mình. Tôi không tiện hỏi han thêm, vì còn quá nhiều việc để làm.<br /><br />Xe chúng tôi chạy ngang qua nhà Thiếu Tá Qu., Trưởng Phòng 1/SĐ 21, tôi nhìn thấy Thiếu Tá ngồi sau một cái bàn đặt ở ngoài sân, đang hí hoáy ghi. Một số người đứng vây quanh bàn ông. Tôi vỗ vai Thành bảo chạy chậm lại để kịp đọc được dòng chữ ghi trên tấm bảng đặt sát bàn viết<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(102,0,0)"> “Nơi đăng ký trình diện ngụy quân”</span>. Tôi ngờ ngợ nghĩ <span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(102,0,0)">“Như vậy, Th/T Qu. Là người do CS cài đặt vào Quân Đoàn ư? Hay ông nhạy cảm, muốn lập thành tích để được là người cách mạng ba-mươi-tháng-tư?”</span><br /><br />Ra đến khu chợ, tôi ghi nhận một điều là hầu hết các tiệm ăn đều chật cứng thực khách. Lúc đó tôi bỗng thấy đói và nhớ ra từ đêm qua tôi chưa có thứ gì vào bụng. Tôi cùng Thành tìm chỗ ngồi để ăn sáng. Tiếng cười nói trao đổi giữa thực khách vang lên ỏm tỏi. Có 2 người khách ngồi cùng bàn với chúng tôi, nói với nhau:<br /><br />- Ăn cho đã! Ngày mai biết còn xài tiền được nữa không?!...<br /><br />Tôi để Thành ngồi tại quán, một mình đi sâu vào chợ. Mắt tôi choáng ngộp với toàn màu đỏ: Cờ cộng sản cùng những cây vải đỏ bày bán khắp nơi. Dân chúng nơi đây quả đã sớm hội nhập với hoàn cảnh mới!. Tôi mua các thứ trà, nhang, đèn cầy, vải liệm ... rồi trở ra cùng Thành phóng nhanh về dinh.<br /><br />Quan tài đã được đem đến và được đặt trên 2 giá gỗ chính giữa nhà. Tôi hơi phập phồng khi thấy có 2 cán binh cộng sản miền Nam đang trên vọng gác. Họ không đả động gì tới bên trong dinh. Hình như họ được lệnh chỉ ở đó mà thôi? Có lẽ thấy yên tâm phần nào, bà tướng nói với tôi và Thiếu Tá Phương, ý bà dự định quàn lại 3 ngày. Tôi thấy cỗ áo quan cũng<span style="FONT-STYLE: italic"> “khiêm tốn”</span>, nên bàn với Thành đến QYV Phan Thanh Giản tìm xin bộ ny-lông. Tôi muốn nhân dịp nầy để biết đích xác tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Xe chúng tôi tới cổng QYV, lác đác còn vài thương binh đang khập khễnh cùng thân nhân hối hả ra cổng. Khi vào sâu bên trong, tôi nhận ra nơi đây im lìm, trống vắng. Y-sĩ, nhân viên lẫn thương bệnh binh ... đều đã rời viện tự bao giờ rồi. Một ít thương binh tôi còn gặp có lẽ vì thân nhân ở xa mới vừa đến để đón họ. Duy nhất chỉ một người đàn ông trạc tuổi tôi còn đứng trong sân cạnh chiếc xe gắn máy của anh. Tôi thầm mong gặp được nhân vật có vai trò đúng như Trung Tá Bia. Tôi liền đến gần và đánh bạo bộc bạch cùng anh việc tôi đến đây. Rất may, tôi gặp đúng người. Anh trao cho tôi bộ ny-lông giấu nơi yên xe kèm theo lời nói:<br /><br />- Thật may quá, chỉ còn một bộ duy nhứt. Từ sáng tới giờ phát hết rồi!<br /><br />Tôi hỏi thêm:<br /><br />- Thiếu Tướng Nam nằm ở đâu?<br /><br />Anh chỉ Phòng Lựa Thương cách đó chừng 30m và dặn dò tôi coi chừng, đã có chúng nó. Tôi cẩn thận nhìn quanh một lượt. Khi thấy chỉ có 3 chúng tôi, tôi cảm ơn anh, rồi bảo Thành chạy xe đến đậu sát bậc thềm căn phòng, rồi ngồi trên xe chờ tôi. Tôi vừa bước vào cửa phòng là thấy ngay một thi thể được phủ kín bằng tấm drap trắng, chỉ ló ra ngoài 2 chân vẫn còn mang đôi giày da quân đội. Thi hài nằm trên chiếc băng-ca đặt trên 2 giá sắt cao gần 1m. Một chiếc bàn nhỏ đặt trước đầu băng-ca, trên có một lon nhôm đựng cát dùng thay bát hương, một hộp quẹt diêm và một thẻ nhang nhỏ đã bốc ra. Trong Phòng Lựa Thương vắng ngắt . Tôi đoán chắc đây là thi thể của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Tôi bùi ngùi mục kích nỗi cô độc của ông. Tôi bước tới đưa tay kéo nhẹ tấm phủ trên đầu để được nhìn thấy gương mặt Thiếu Tướng hiền từ như người đang ngủ. Một vết đạn khoét từ thái dương trái trổ một đường kính cỡ trái chanh nơi thái dương phải, vệt máu đã thẫm đen chạy dài từ đó xuống gò má, đến cổ và đọng lại trên bâu áo phải làm lem lấm 2 ngôi sao thêu màu đen. Bộ quân phục chiến đấu vẫn trên người Thiếu Tướng đến giây phút cuối cùng. Tôi đốt một nén hương cặm vào lon cát đã có 3 chân nhang của ai đó đã đến đây trước tôi. Tôi kéo tấm vải phủ lại như cũ, rồi lặng lẽ rời QuYV, với nỗi lòng thật nặng nề, mệt mỏi như người bệnh. Giờ phút cấp bách nầy, tôi không thể làm gì hơn được cho vị Tướng Tư Lệnh kính quý!. Nhưng tôi hy vọng quí vị quân y sĩ của QuYV sẽ không bỏ mặc Thiếu Tướng. Tôi trở về dinh để chờ đón Trung Tá Bia. 20 phút sau Trung Tá đến.<br /><br />Sau lớp vải liệm là đến chiếc túi ny-lông ôm chặt thi thể Chuẩn Tướng. Chúng tôi đưa thi hài xuống nhà dưới. Trung Tá Bia bảo tôi nâng phần đầu. Lễ tẩn liệm đơn sơ, nhanh chóng do Trung Tá Bia chỉ dẫn thực hiện. Tôi đứng ở đầu quan tài lặng nhìn Trung Tá Bia điều khiển mấy người lính trong dinh làm động tác cuối, từ từ đậy nắp áo quan. Bỗng có tiếng la lớn uất nghẹn:<br /><br />- Trời ơi!... Ông “thầy” ơi!<br /><br />Rồi bóng một người lao đến bên quan tài, anh xúc động gần như quỵ xuống. Tôi nhận ra đó là Thiếu Tá Lành, Tiểu Đoàn Trưởng 3/33. Tiểu Đoàn của anh sáng nay cũng đã tuân lệnh giải giáp, giao vũ khí, cởi bỏ quân phục tại chỗ, rồi từ trong vùng hành quân lội bộ ra lộ, mạnh ai nấy tự tìm phương tiện về nhà. Thiếu Tá Lành được tin cái chết của Tướng Hưng nên tìm đến tư dinh. Anh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân, sau khi rời quân trường, về Tiểu Đoàn 2/31 cuối năm 1968. Do đã từng phục vụ dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Hưng, thuở đó là Trung Đoàn Trưởng 31, nên anh vẫn nhớ và kính quý vị “thầy” của mình...<br /><br />Đúng lúc đó Trung Úy Phúc xuất hiện. Anh cùng vợ con đáp xe đò từ Sài Gòn xuống tới. Mọi việc xong xuôi, Trung Tá Bia từ giã chúng tôi để về nhà gặp gia đình. Từ hôm qua, 30-4, tên ông vẫn còn nằm trong sổ cấm quân ban hành từ hơn 1 tuần nay của BTL/QuĐ. Một người lính vào nói nhỏ cho tôi biết một nguồn tin rất bất lợi cho chúng tôi. Do vậy, tôi, Phúc và Thiếu Tá Phương thuyết phục bà Tướng nên an táng ngay cho ông và rời dinh càng sớm càng tốt. Chúng tôi phân chia công việc cho nhau: Phúc cùng vài nhân viên đến khu đất nhà ở Cái Răng lo đào huyệt. Phần tôi lo xe tang. Thành đưa tôi đến Hội Mai Táng Từ Thiện của Hiệp Hội Xe Đò Cần Thơ. Rất may cho chúng tôi là người đại diện cho Hiệp Hội chấp thuận, dù biết đó là đám tang của một vị Tướng. Ông cho biết là phải lo cho đám tang khác lúc 15 giờ. Vậy chúng tôi cần phải chuẩn bị sẵn sàng, lúc xe tang đến là phải di chuyển liền.<br /><br />Từ lúc đó cho đến khi xe tang xuất hiện, chúng tôi thu xếp mọi thứ đem theo để khi rời dinh sẽ không trở lại nữa. Riêng phần gia đình Chuẩn Tướng, buổi sáng sớm sau khi gặp Thành tôi đã trở về hướng dẫn xe Falcon và xe jeep dân sự đến gởi bên nhà Thành rồi, với số hành lý chứa trong cóp sau xe.<br /><br />Giờ phút trôi qua chậm chạp với nỗi lo lắng chờ đợi của tôi. Từ 16 giờ tôi bắt đầu sốt ruột, bứt rứt không yên. Mảng nắng chiều vàng vọt còn cố níu lại trên đỉnh tàn sao cao ngất. Đúng lúc tôi đang bối rối với chút mong manh hy vọng, bỗng có tiếng ồn ào, rồi cánh cửa cổng mở toang. Chiếc xe tang đen ngòm đưa phần đuôi trườn vào sân. Các nhân viên trên xe nhanh nhẩu nhảy xuống chạy vào nhà. Đã chuẩn bị sẵn, chúng tôi cùng họ đưa quan tài lên xe. 5 phút sau tất cả chúng tôi bắt đầu rời dinh. Anh Phương, Phúc và tôi cùng gia đình bà Tướng ngồi trên xe tang. Thành và những nhân viên khác dùng phương tiện riêng chạy theo sau xe tang. Lúc xe rời cổng lớn một đoạn, tôi nhìn lại thấy có nhiều người chạy ùa vào dinh. Vĩnh biệt tất cả, vĩnh biệt cả con chó berger chúng tôi đau lòng phải bỏ nó lại!... Xe quẹo ra đại lộ Hoà Bình để hướng về Cái Răng.<br /><br />Tại huyệt mộ, một cậu bé trạc độ 14 tuổi, nhưng đôi tay thật thông thạo, nhịp nhàng với miệng hô khẩu lệnh điều khiển lên xuống đòn tay, rút dây khéo léo, đưa êm thắm quan tài đến đáy huyệt. Họ nhanh chóng phụ giúp chúng tôi lấp đất và đấp vung lên thành hình ngôi mộ. Chúng tôi ngậm ngùi chào từ biệt Chuẩn Tướng, để lại mình ông đơn độc như cố Thiếu Tướng Nam mà tôi đã gặp vào buổi sáng.<br /><br />Chúng tôi về đến Cần Thơ thì trời đã tối. Bà Tướng và gia đình cùng Thiếu Tá Phương, Trung Úy Phúc đến nương náu tại một ngôi chùa. Sau nầy chính các vị sư ở đây đã giúp xây mộ cho Chuẩn Tướng. Tôi về nhà Thành để trông coi 2 chiếc xe. Chúng tôi hẹn gặp nhau lúc 8 giờ sáng ngày mai, 2-5, để về Sài Gòn. Tôi khẩn khoản yêu cầu Thượng Sĩ nhất Triệu, tài xế xe Falcon, cố gắng giúp đưa gia đình bà Tướng về đến Sài Gòn, một lần nầy nữa thôi. Buổi tối, tôi mở tất cả va-li trong cóp xe ra kiểm soát lại, đem thiêu huỷ tất cả hình ảnh binh bị của Chuẩn Tướng. Ban chiều tôi đã trình bày cùng bà Tướng là không nên giữ lại những gì sẽ có hại cho gia đình bà, trên đường về không biết bất trắc ra sao. Hơn 10 giờ đêm, tôi vào giường thao thức không ngủ được. Tôi lo nghĩ đến chuyện di chuyển ngày mai. Nếu vì bất cứ lý do gì, người tài xế vắng mặt, thì tôi phải đảm trách phần việc khó khăn nầy của anh. Tôi chỉ từng lái xe jeep mà chưa từng lái chiếc xe tương đối cồng kềnh nầy, khó khăn nhứt là lúc lên xuống phà. Chiếc jeep giao cho Thiếu Tá Phương, Trung Úy Phúc và gia đình.<br /><br />Buổi sáng 2-5, tôi vô cùng mừng rỡ và cảm động khi thấy Thượng Sĩ Triệu xuất hiện. Không chỉ riêng chúng tôi mà người hạ sĩ quan già nầy, trong thời gian chờ giấy xuất ngũ, vẫn tận tụy với Chuẩn Tướng đến giờ phút hiểm nguy nhất. Đêm qua, khi về đến nhà Thành, Trung Sĩ Sao, cận vệ của Chuẩn Tướng mới bịn rịn từ giã tôi ra bến xe để về với gia đình chắc chắn đang rất trông chờ anh.<br /><br />Không biết có còn dịp gặp lại nhau nữa không, tôi nghẹn ngào chia tay người bạn tâm đầu ý hợp và gia đình Trung Úy Thành rồi lên xe đến điểm hẹn. Xe tôi đi đầu, xe Phúc theo sau, bắt đầu xuống phà Cần Thơ trực chỉ Sài Gòn. Chúng tôi cùng chung tâm trạng mong nhanh chóng rời khỏi nơi đây. Qua bên kia bờ, mới đi được vài cây số, xe tôi gặp một toán cộng quân miền Nam đứng rải trên đường chận lại xét hỏi. Nhờ vậy xe Phúc thoát qua lọt. Một nữ cán binh, có vẻ là Trưởng Toán, cổ quàng khăn rằn, biểu tượng cán binh miền Nam, vai mang chiếc radio nhỏ đang phát vang rền một bài ca vọng cổ. Cô ta tiến đến bảo tôi mở cửa xe. Thấy chiếc va-li, họ lôi xuống bảo mở ra xem. Trong đó chỉ toàn là quần áo. Tôi mừng thầm là họ không khám phá ra chỗ cóp xe. Đến lượt cái bóp tay của bà Tướng, trong đó có một xấp tiền độ một trăm ngàn. Tôi choáng váng khi thấy cô ta lôi ra một xấp hình. Cô ta chú mục từng tấm một. Toàn là hình ảnh của Chuẩn Tướng mặc quân phục tại chiến trường. Có tấm chụp chung với cố vấn Hoa kỳ nữa. Không kịp trấn tĩnh, tôi trả lời họ đây là vị Tướng đã chết rồi. Thế là họ ra lệnh bắt giữ bà Tướng và tôi với những tang vật đó. Trong lúc rộn ràng, tôi lấy cớ đến đóng cửa xe, rồi ra dấu bảo tài xế rồ máy chạy đi, mặc bà Tướng và tôi tự lo liệu sau. Tôi hy vọng, khi không thấy xe tôi, Phúc sẽ dừng xe lại chờ.<br /><br />Chúng tôi bị đưa về BChH quận Bình Minh hiện do cộng quân chiếm giữ. Cùng chung số phận bị bắt còn có đôi nam nữ tuổi trạc 20-25 với lý do khá ngộ nghĩnh: Họ mang theo người số tiền gần 40 ngàn mà không có ... “đăng ký”! Tại BChH quận, nữ cán binh áp giải chúng tôi đứng ra <span style="FONT-STYLE: italic">“tố giác tội trạng”</span> chúng tôi trước hơn chục dân chúng hiếu kỳ, tính tình vốn chất phác của người miền Nam, họ chưa quen hình thức<span style="FONT-STYLE: italic"> “đấu tố”</span> nầy, nên chỉ trố mắt đứng nghe. Thao thao đã mồm rồi cô ta giao cả 4 chúng tôi cho một ông già, nói là cô cần đi dùng cơm trưa. Trong phòng bây giờ chỉ còn lại một nhân viên nầy. Tôi thầm khấn nguyện vong linh Chuẩn Tướng độ trì cho chúng tôi sớm rời được nơi đây. Một lát sau, bỗng dưng ông già trông giữ chúng tôi đem giao trả mọi thứ và cho chúng tôi đi. Có lẽ ông ta không phải là cộng sản chính cống. Chúng tôi lập tức lên xe thồ ra quốc lộ đón xe đò hướng về Vĩnh Long. Ngồi yên trên xe đò rồi, tôi lần dò kiểm lại các thứ: Mặc dù số tiền vơi đi, nhưng tôi vẫn hoàn lại đôi nam nữ số tiền họ bị mất trắng. Trước đó tôi đã thầm ước nguyện có mất tiền cũng được miễn sao được tự do thì thôi.<br /><br />Trên chuyến xe đò ọp ẹp, chật ních người, nhưng ai nấy đều biểu lộ nỗi rạng rỡ, sung sướng. Họ cùng nhau phát biểu ca tụng cảnh hoà bình hôm nay, tha hồ đi suốt từ Nam chí Bắc ... Thậm chí có người còn không tiếc lời chê bai, nguyền rủa đội quân trước đây đã từng bảo vệ họ. Tôi lơ đãng nhìn qua cửa hông xe, ngắm cảnh đồng ruộng bên ngoài, nhưng những âm điệu trong xe vẫn nhức nhối lọt vào tai. Cảnh vật vút qua như dòng đời trôi chảy. Tôi nghĩ ngợi mông lung đến một ngày không xa.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Nghĩa</span><br /><br /></div><p align="justify"><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(102,102,102); FONT-WEIGHT: bold">Phần viết thêm:</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(102,102,102)">Sau này tôi có được bà Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng liên lạc và cho tôi biết Chuẩn Tướng có để lại cho tôi một bức thư. Tôi trình bầy với bà tôi không dám nhận, vì biết nội dung bức thư trăng trối là một lời ủy thác mà tôi không có khả năng thực hiện.</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(102,102,102)">Tôi biết Hưng bảo tôi mưu cầu phục quốc, nhưng tài hèn, sức mọn, tôi không làm được.</span><br /></p><div style="TEXT-ALIGN: justify"><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Nguyễn Ðạt Thịnh</span> </div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-1131680996037844442010-04-17T07:35:00.001+10:002010-04-17T07:35:43.210+10:00Một bà mẹ vất vả ngược xuôi - Ngọc Thủy<center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S8jVCb9ERdI/AAAAAAAAIqU/qEtgWB8PGX0/s1600/giadinh.thieutuong_phamvanphu.jpg"><img style="WIDTH: 600px; HEIGHT: 379px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5460848786027070930" border="0" alt="" src="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S8jVCb9ERdI/AAAAAAAAIqU/qEtgWB8PGX0/s400/giadinh.thieutuong_phamvanphu.jpg" /></a><br /></center><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify"><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: boldfont-size:85%;" >Ngọc Thủy</span><br /><br />Vào một buổi trưa trong dịp một số các vị cựu quân nhân Biệt Kích ở Bắc Cali tổ chức buổi họp mặt cách đây khoảng bốn năm – không nhớ đó có phải là buổi hội ngộ hằng năm không – tôi được mời đến trong một không khí ấm áp, đậm đà tình nghĩa Huynh Đệ Chi Binh giữa những người từng một thời vào sinh ra tử bên nhau. Sau khi được anh chị Trần Hoàng giới thiệu với những người chung bàn và thật bất ngờ vì đó là điều hân hạnh đối với tôi khi được biết mình đang ngồi bên cạnh bà quả phụ cố Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, là một trong những vị Tướng đã tuẫn tiết để giữ tròn sĩ khí của một Quân Nhân khi miền Nam Cộng Hòa vừa rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt trong ngày 30 tháng Tư năm 1975. Qua vài câu xã giao, tôi và bà nhanh chóng đi vào những tâm tình cởi mở. Với vóc người khá cao lớn, giọng nói mạnh mẽ cùng tiếng cười sang sảng, cho tôi thấy đó là một vị nữ lưu trực tính và quả cảm. Khi ấy, dù đã ngoại lục tuần, bà Phạm văn Phú vẫn giữ được sự duyên dáng và nét tinh anh qua đôi mắt sáng, nụ cười tươi tắn với lối nói chuyện bộc trực trẻ trung.<br /><br />Hôm ấy, tuy đang hạnh phúc trước cảm tình trân quý nồng ấm của mọi người hiện diện dành cho cố T/T Phạm Văn Phú và bà, nhưng có lúc tôi thấy đôi mắt bà ngấn lệ. Giòng nước mắt lăn chậm ấy như cũng bay vào mắt tôi khi giọng bà tự dưng khàn nhỏ lại bên tai: <span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">“Cô Ngọc Thủy cũng là người kẹt lại với biến cố ấy thì chắc cũng thấu hiểu được nỗi khổ đau cùng tận đến thế nào rồi. Cùng một lúc, tôi và các con chịu hai cái tang lớn nhất trong cuộc đời, mất miền Nam, mất chồng mất cha, xem như mất tất cả rồi, lại trong lúc Sàigòn của chúng ta đang kinh hoàng đến hỗn lọan như thế. Mọi người phải tự lo lấy thân mình còn chưa xong còn lo được đến chuyện của ai. Cùng tám đứa con mồ côi trước mắt chưa biết phải xoay sở ra sao mà sống mà nuôi con, nhưng trước hết là phải lo cho ông Phú tôi được chôn cất tử tế chứ. Thế là phải nén chặt lại tất cả sự khổ đau để cố lo tang lễ cho ông ấy được đàng hoàng. Dù đang không, ông Phú tôi đành dứt áo bỏ lại tôi cùng tám đứa con nbỏ bơ vơ, nhưng việc ông làm là đúng khi thế thời như thế. Việc ông làm cho đất nước như vậy, tôi nào đâu dám trách. May mà bên cạnh tôi lúc ấy cũng có vài người thân thiết có nghĩa tình bên cạnh giúp đỡ phần nào đấy cô”</span>.<br /><br />Buổi gặp gỡ lần đầu đã để lại cho tôi sự thấm thía xót xa về tất cả những mất mát của mọi hoàn cảnh nằm trong sự tan vỡ của quê hương vào tháng tư năm 1975, niềm quý mến về người phụ nữ đã một mình chống đỡ với bao phong ba bão táp xẩy đến dồn dập trước và ngay sau biến cố trọng đại tang thương ấy. Lòng tôi thầm nhủ lúc chia tay là sẽ điện thoại thăm bà luôn để mong bà có thể thêm chút niềm vui trong thời gian đầu mới vừa rời nơi cư ngụ quen thuộc ở Nam Cali để lên vùng nắng ấm San Jose với các con. Thế mà có khi cả hàng năm mới có dịp gọi phôn thăm hỏi được một lần, dù ngẫu nhiên qua vài lần thăm hỏi đó tôi cũng biết thêm là nhà tôi và nhà bà cùng ở vùng North Valley, cách nhau chỉ độ mấy khoảng đường dài. Nỗi đau tâm sự của bà kể lại trong câu chuyện hàn huyên vẫn lởn vởn trong trí nhớ tôi, kèm thêm biết bao hồi ức đau buồn khác đã xẩy đến cho tất cả mọi người trong giai đoạn tối đen của đất nước và cuộc sống lúc ấy.<br /><br />Tình hình nghiêm trọng cho thấy là phiên họp ngày 11 /3/75 tại Dinh Độc Lập, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu còn muốn giữ lại thị xã Ban Mê Thuột nhưng tới phiên họp khẩn báo ngày 14/3/75 tại Cam Ranh, tức chỉ ba ngày sau, Tổng Thống cùng Bộ Tổng Tham Mưu đã ra quyết định cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú thi hành kế hoạch rút quân. Cuộc di tản diễn ra khá thuận lợi trong hai ba ngày đầu vì bất ngờ, CSBV không biết để đánh chận đường. Con đường duy nhất để tháo quân lúc đó là liên tỉnh lộ 7B từ Phú Bổn nối liền với các tỉnh lân cận. Trên đoạn đường này về đến Tuy Hòa và Phan Rang, Phan Thiết đã trở thành bờ vực từ lộ dưới làn mưa pháo của Cộng quân ráo riết nhắm vào đoàn người di tản gồm nhiều binh lính thuộc các lực lượng, sư đoàn của Quân đoàn II và gia đình binh sĩ cùng mấy trăm ngàn thường dân từ các tỉnh nhập vào.<br /><br />Dù phải thừa hành theo lệnh tối cao nhưng sự thất bại của Quân Đoàn II cũng là phần trách nhiệm của Tướng Phú nên không ai hiểu nỗi đau đớn xót xa nào bằng của ông trong lúc ấy chính là người vợ luôn sát cánh cùng ông trong mọi hoàn cảnh khốn khó hoặc vui buồn từ trước giờ. Bà đã hết lòng an ủi ông, nhưng ông vẫn không thể nguôi ngoai nỗi khổ đau to lớn đó khi nghĩ đến cái chết oan khiên tức tưởi của nhiều sinh mạng chứ không riêng gì sự mất mát những vùng đất thân yêu máu thịt của miền Nam VN, đến mức mang tâm bệnh não nề. Buổi sáng ngày 29 tháng Tư, trời Sàigòn đã u ám mây đen. Tình hình miền Nam sắp mất gây thành nỗi kinh hoàng cho mọi người. Họ phải thoát chạy khỏi Cộng sản lần nữa bằng mọi cách, mọi phương tiện tìm được.<br /><br />Giữa giòng người ấy, bà Phạm Văn Phú đang mang bẩy người con (người con trai lớn mười tám tuổi vừa được xuất ngoại du học) ra phi trường. Bà nóng lòng nghĩ đến lời ông buổi sáng dục giã bà hãy mang các con đi trước, ông sẽ cố gắng thu xếp mọi việc rồi sẽ gặp nhau sau. Bà còn nhớ lời bà nức nở khi tạm chia tay:<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)"> “Ông nhớ đừng làm chuyện gì nguy hại đến tính mệnh. Tôi không đủ sức nuôi nổi tám đứa con thơ một mình đâu”</span>. Ông không trả lời, chỉ xiết chặt tay bà như ngầm bảo, không đâu, nhưng ánh mắt của ông nhìn bà lúc ấy, sao thương yêu mà thê thiết quá. Rồi ông đẩy nhẹ lưng bà, khe khẻ nhắc:<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)"> “Em và các con đi nhanh lên kẻo trễ”</span>. Bà có ngờ đâu, đó là cái chạm tay lần cuối.<br /></div><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify"><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S8jVCLoPRQI/AAAAAAAAIqM/8TRnFzC8WRg/s1600/baPhamVanPhu.cacconvankhantang.th%C3%A1ngT%C6%B01975.jpg"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 258px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5460848781644743938" border="0" hspace="8" alt="" align="left" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S8jVCLoPRQI/AAAAAAAAIqM/8TRnFzC8WRg/s400/baPhamVanPhu.cacconvankhantang.th%C3%A1ngT%C6%B01975.jpg" /></a>Nhớ lại những cử chỉ khác thường của ông lúc đó, bà bỗng thấy nao nao và lòng dạ như có ai đốt lửa. Bà ngập ngừng giữa sân bay, chưa nỡ rời xa quê mẹ lẫn người chồng thân yêu còn ở lại, dù đang được người bạn Hoa Kỳ thúc hối lên máy bay gần cất cánh. Vừa lúc đó bà nghe người thân tín chạy vội tới báo tin: Tướng Phú vừa uống thuốc độc tự tử, đang cấp cứu ở nhà thương Grall. Không cần suy nghĩ gì nữa, bà tức tốc đem các con trở về hết. Vừa thấy bà và các con vào thăm, Tướng Phú lộ vẻ đau đớn trong ánh mắt, bởi lúc đó ông đã không cử động hoặc nói năng gì được nữa, ông đang trong tình trạng hấp hối bởi độc dược chưa làm ông chết ngay được. Và ông đã vĩnh viễn ra đi vào trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975.<br /><br />Hình ảnh mới hôm nào của ngày Tết mùa xuân 1975, hai ông bà Phạm Văn Phú chụp cùng các con trong niềm vui hạnh phúc gia đình tràn đầy, có ngờ đâu vài tháng sau, hình ảnh tang thương một góa phụ cùng đàn con dại, bé nhất mới lên năm, lại quấn khăn tang bên cạnh quan tài người chồng, người cha, không tiếng súng tiễn đưa, không lá quốc kỳ phủ mộ. Chỉ có một nỗi buồn đau lớn lao chung gộp lại: niềm đau vận hạn tang thương của đất nước lẫn người thân yêu đã vĩnh viễn ra đi.<br /><br />Thân cò lặn lội nuôi con từ đó, một người phụ nữ goá chồng với tám đứa con thơ lúc ấy chỉ mới vừa ba mươi chín tuổi. Thương con, thương chồng bà ở vậy, chắt chiu nuôi con trong bủa vây khốn khó của buổi giao thời dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Bao ngày tháng qua đi mang theo bao giòng nước mắt tủi cực đắng cay của người mẹ yếu ớt che chở nuôi dạy đàn con thơ. Căn nhà đang cư ngụ trên đường Gia Long, đối diện nhà thương Grall ngay sau ngày 30-04-75 đã bị những cán bộ miền Bắc tràn vào tiếp thu. Bà Phạm Văn Phú gạt nước mắt xa lìa nơi chốn ấm êm hạnh phúc của những ngày tháng qua một cách bàng hoàng tức tưởi, vội vã tìm thuê ngay một căn nhà nhỏ khác để tạm ổn định cuộc sống mới, rồi bương chải lo cho các con – mà đứa lớn nhất chỉ mới mười lăm mười sáu và bé nhất năm tuổi, khi ấy giống như chú gà con bước đi chưa vững đã phải bám theo chân mẹ và đàn anh chị lội qua cánh đồng lầy cuộc sống không nhìn thấy tương lai. Và người phụ nữ ấy giống như trăm ngàn người phụ nữ khác sau cuộc đổi đời cay đắng, không bị mất chồng trong biến cố tang thương thì cũng phải chịu cảnh thân cò lặn lội nuôi con vì chồng, cha đã bị ở trong trại tù “cải tạo” xa xôi mờ mịt, không biết khi nào mới có ngày trở về.<br /><br />Bà Phú đã ngược xuôi khắp ngả đường “chợ trời” để mua bán chiu chắt từng đồng cắt, độn cháo rau khoai sắn qua ngày cho các con thơ. Bà cũng quá quen thuộc với con đường xe lửa chạy hàng trên tuyến đường Sàigòn, Phan Thiết, Nha Trang. Cảnh mắt nhắm mắt mở ngủ vội vàng trên toa, cảnh xô vai té ngả rồi gượng đứng lên để cố chen nhau mua hàng bán họ kiếm chút đồng lãi mua gạo cho con, thật ra có thấm gì với sự khổ đau trong tâm hồn và bao sống cảnh nghiệt ngả khác mà gia đình bà và của biết bao người phải hứng chịu từ ngày miền Nam đổ vỡ tan hoang.<br /><br />Chịu đựng gần mười tám năm với cuộc sống khó khăn ở ngay chính quê hương mình, mỗi ngày thêm mệt mõi, buồn phiền khi một số bạn bè người thân còn kẹt lại cũng lần lượt ra đi như ba người con trai bà cũng đã vượt biển và tới được bến bờ tự do từ mấy năm trước. Đang lúc chới với nhất thì bà may mắn nhận được giấy xuất cảnh từ sự bảo lãnh người con trai trưởng bên Hoa Kỳ.<br /><br />Ngày Mother’s Day năm nay, bà quả phụ Phạm Văn Phú đã ngoài bẩy mươi. Hạnh phúc của bà là các con, năm trai và ba gái, giờ đây đều đã trưởng thành và rất hiếu thảo, thương kính mẹ. Những lúc cùng các con với các buổi tiệc thịnh soạn do các con chúc mừng Mẹ, đặc biệt là ngày lễ Mẹ hôm nay thì bà lại nhớ những ngày cùng cực đói khổ trong cuộc sống cam go đã trải qua. Bà rơi nước mắt ngậm ngùi nhưng cũng rất hãnh diện với sức mạnh của lòng mẹ đã giúp bà vượt qua tất cả. Vì các con và cho các con.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ngọc Thủy</span><br /><span style="COLOR: rgb(204,204,204);font-size:85%;" ><span style="FONT-STYLE: italic">Source: http://www.viettribune.com/vt/index.php?id=985</span></span><br /></div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-43175557053017901912010-04-02T17:25:00.003+11:002010-04-02T17:48:07.590+11:00Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway ngày 30-4-1975 và Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng<center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S7WJ18ZCr3I/AAAAAAAAIi8/unFNnpLHUYg/s1600/BungLee2.Landing.jpg"><img style="WIDTH: 560px; HEIGHT: 542px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5455418083466456946" border="0" alt="" src="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S7WJ18ZCr3I/AAAAAAAAIi8/unFNnpLHUYg/s400/BungLee2.Landing.jpg" /></a><br /><span style="COLOR: rgb(102,102,102);font-size:85%;" ><span style="FONT-STYLE: italic">Quang cảnh lúc chiếc L19 do Thiếu Tá Lý Bửng lái đáp an toàn trên HKMH Midway</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic">Ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp.</span></span></center><br /><span style="font-size:85%;"><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Thanh Phong/Viễn Đông</span></span> <ul style="COLOR: rgb(0,0,102)"><span style="font-size:130%;">Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway ngày 30-4-1975 và Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng</span></ul><center><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjNmGoOhaHkElinCtDhpXaji06VkxFsco13a81A4knLmtnuCrC8vC6Eq2OJRUb-1_-cpPhJXabvJs68J3asISjrnaU0YL5LH0ZPM7ejUp-2ykuWWKImRQwy-3j9fyoN-IeC2zYnui7HCVY/s1600/ussmidway.jpg"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 322px; CURSOR: hand" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5455427027441153378" border="0" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjNmGoOhaHkElinCtDhpXaji06VkxFsco13a81A4knLmtnuCrC8vC6Eq2OJRUb-1_-cpPhJXabvJs68J3asISjrnaU0YL5LH0ZPM7ejUp-2ykuWWKImRQwy-3j9fyoN-IeC2zYnui7HCVY/s400/ussmidway.jpg" /></a></center><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify; FONT-STYLE: italic"><span style="FONT-WEIGHT: bold">LITTLE SAIGON</span> - Năm nay kỷ niệm 35 năm, ngày hàng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do, một buổi lễ được đặc biệt tổ chức trên Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway, nay là Bảo Tàng Viện USS Midway, đang neo đậu vĩnh viễn tại hải cảng San Diego, miền Nam California. Vào những ngày cuối tháng 4-1975, Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway đã đón nhận hàng ngàn người Việt di tản, trong đó có một số tướng lãnh cao cấp của chính quyền VNCH. Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng, một trong số những người có mặt trên USS Midway đã làm cho cả thế giới thán phục, vì ông là người đầu tiên lái loại phi cơ L19 đáp xuống hàng không mẫu hạm an toàn. Để tìm hiểu chi tiết sự kiện độc đáo của người phi công Không Lực VNCH, chúng tôi đã được ông dành cho cuộc phỏng vấn đặc biệt, và sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn của chúng tôi với Thiếu Tá Lý Bửng qua đường dây điện thoại viễn liên.<br /></div><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify"><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Xin chào Thiếu Tá Lý Bửng, Thiếu Tá mạnh khỏe không?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Thiếu Tá Lý Bửng:</span> Ồ, chào anh, tá với tướng gì nữa, gọi anh em đi cho nó thân mật.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Vậy thì cám ơn Thiếu Tá, nhưng trước khi xưng hô anh em, xin Thiếu Tá cho biết năm nay bao nhiêu cái xuân xanh rồi mà chưa nghỉ hưu vẫn phải đi cày?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Xấp xỉ bảy bó rồi, nhưng còn cày được ta cứ cày (cười).<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Vậy thì gọi Thiếu Tá là anh phải rồi, vì đàn em thua anh vài tuổi thôi.</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(153,153,153)">(Đến đây xin phép độc giả, chúng tôi đổi cách xưng hô theo lời yêu cầu của Thiếu Tá Lý Bửng).</span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi-393JgBSjHK2vzdxP4tIbD2TIVcWuMQvyqpb4NQKCgcV1ngFO-ukVzU1guSNTkfHZ6Evog4eXiidVXD6pa8qoZ9MLiFiWQH-ASBCVil6hG7C0XZvX0CXX_7d7JG2iXv3hAN4DzevbHIE/s1600/midway-804b.jpg"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 300px; CURSOR: hand" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5455427036888832434" border="0" hspace="6" alt="" align="left" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi-393JgBSjHK2vzdxP4tIbD2TIVcWuMQvyqpb4NQKCgcV1ngFO-ukVzU1guSNTkfHZ6Evog4eXiidVXD6pa8qoZ9MLiFiWQH-ASBCVil6hG7C0XZvX0CXX_7d7JG2iXv3hAN4DzevbHIE/s400/midway-804b.jpg" /></a><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Rồi, OK, tôi làm anh, chú là em. Bây giờ chú muốn hỏi điều gì đây?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Thì hỏi anh chuyện lái máy bay đáp xuống hàng không mẫu hạm USS Midway đó mà!</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Mà hỏi để làm gì?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Để đăng báo cho bà con đọc!</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Thôi mà, có gì mà phải đăng báo! Mà đăng báo có sao không?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Sao là sao ạ? Có phải anh khiêm tốn hay là ngại chuyện gì khác?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Có liên quan đến chính trị không đó?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Thưa không đâu, chả có chính trị chính em gì cả. Đây là câu chuyện lý thú và rất đặc biệt của một phi công Việt Nam Cộng Hòa tài ba thôi.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Cho tôi một phút suy nghĩ.... Alô, rồi OK tới luôn đi.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Thế là ông anh sẵn sàng trả lời rồi phải không?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Sẵn sàng.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Trước hết xin cho biết, ông anh gia nhập Không Quân VNCH năm nào? Vào thời điểm cuối tháng 4-1975, anh mang cấp bậc gì, đơn vị nào và đồn trú tại đâu?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Cấp bậc cuối của tôi là Thiếu Tá, còn hỏi đơn vị để làm gì vậy chú?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Thưa ông anh, trước hết để đơn vị của ông anh hãnh diện là có một bạn đồng ngũ nổi tiếng thế giới, đem vinh dự cho đơn vị; thứ hai là để kiểm chứng xem ông anh có ở trong Không Quân thiệt hay là ông anh cướp máy bay đi thì sao?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Chịu thua. Rồi, OK, tôi vô Không Quân năm 1963, đơn vị tôi là Phi Đoàn 114 Quan Sát, đóng tại Nha Trang, rồi gì nữa đây?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Anh lái loại máy bay nào khi bay ra hàng không mẫu hạm?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Tôi lái L19, loại máy bay quan sát.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Nếu em nhớ không lầm, loại máy bay này người ta thường gọi là máy bay bà già hay là máy bay thám thính, đúng không anh?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Đúng rồi đó, nhưng mà gọi là máy bay quan sát cho nó nhẹ nhàng, chứ thám thính nghe ghê quá!<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Anh bay từ đâu ra hàng không mẫu hạm, và ngày nào?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Tôi bay từ Côn Sơn. Đầu tiên tôi bay từ Tân Sơn Nhất ra Côn Sơn ngày 29-4, rồi từ Côn Sơn bay ra HKMH ngày 30-4-1975.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Anh có biết trước vị trí của chiếc HKMH đang ở đâu hay phải bay đi tìm?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Tôi biết có HKMH đón người di tản, nhưng không rõ đang ở đâu, nên phải bay đi tìm.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Anh bay bao lâu thì thấy HKMH?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Khoảng nửa tiếng hay 45 phút thì gặp chiếc USS Midway.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Nếu không gặp HKMH, máy bay của anh có đủ nhiên liệu bay qua Thái Lan không?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Nếu ở sát biên giới Thái Lan thì được, còn ở Sài Gòn, Biên Hòa, Nha Trang hay Côn Sơn thì không đủ nhiên liệu bay qua Bangkok.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Lúc đó chắc còn nhiều loại máy bay khác, sao anh lại chọn L19?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Lúc đó chỉ còn duy nhất chiếc L19.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Ngoài L19, anh còn lái được loại máy bay nào khác?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Tôi cũng lái được loại AD5, AD6 và Cessna, nhưng không lái thường xuyên như L19.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic"><span style="FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span> Vậy khi gặp HKMH, anh làm gì?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Thì tôi xin nó cho mình đáp xuống, nhưng khổ nỗi trên máy bay của tôi không có vô tuyến để liên lạc với dưới HKMH, nên tôi cứ bay vòng vòng xung quanh nó và dùng các phương pháp mình đã học để áp dụng cho nó hiểu là mình xin đáp, nhưng chẳng thấy dấu hiệu trả lời!<br /></div><br /><table border="0" cellspacing="8" cellpadding="0" width="326" align="right"><tbody><tr><td><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S7WJ1S4xLAI/AAAAAAAAIi0/rKKPzz8Taj4/s1600/BungLee1.Note.jpg"><img style="WIDTH: 360px; HEIGHT: 269px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5455418072325237762" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S7WJ1S4xLAI/AAAAAAAAIi0/rKKPzz8Taj4/s400/BungLee1.Note.jpg" /></a> <div style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(102,102,102)" align="left"><span style="font-size:85%;">Một trang bản đồ được Phi Công Lý Bửng xé ra ghi note liệng xuống HKMH. Mảnh giấy này được lưu giữ trên USS Midway - ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp.</span></div></td></tr></tbody></table><div style="TEXT-ALIGN: justify"><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Xin anh đơn cử một trong những phương pháp xin đáp?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Tôi chớp đèn đáp liên tục.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Rồi sao nữa anh?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Tôi nghĩ ra cách, viết cái “note” cho họ hiểu là tôi xin đáp. Đầu tiên tôi cột vào con dao và bay sát HKMH, tôi mở cửa liệng dao xuống. Nó đụng sàn tàu, tưng lên rơi xuống biển. Sau đó tôi làm cái thứ hai, thứ ba, cột vào dây súng thảy xuống, cũng rơi luôn xuống biển. Lần thứ tư, tôi cột vào khẩu P. 38, bay thật thấp và liệng xuống. Lạy Trời, lần này không xuống biển. Tôi nhìn thấy một anh chàng chạy lại lượm lên coi và chạy biến đi, không biết đi đâu. Sau khi xuống tàu, được biết, khi họ lượm và đọc cái note của tôi, họ chạy ngay lên báo cho Hạm Trưởng.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Trước khi trên HKMH họ lượm được cái note của anh, liệu họ có sợ máy bay khủng bố không, vì anh cứ bay vòng vòng quanh họ và lại bay rất thấp?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Không đâu, họ có ống dòm tối tân, họ nhìn thấy hết chứ.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Sau khi lượm được note của anh, họ có ra dấu OK cho anh đáp không?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Tôi bay mấy vòng nữa quan sát, thì thấy họ đang dọn dẹp mấy chiếc trực thăng đậu trên phi đạo cho gọn lại, lúc đó tôi biết họ OK cho mình xuống.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Trong suốt thời gian là phi công, đã có lần nào anh hạ cánh trên hàng không mẫu hạm chưa?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Chưa.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Nhưng đã có lần nào anh phải hạ cánh xuống một phi đạo ngắn như trên HKMH?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Có chứ, nhưng trên đất liền, đỡ nguy hiểm hơn.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Chắc anh biết, phi đạo trên HKMH không có những dụng cụ chuẩn bị cho loại L19 đáp chứ?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Biết chứ. Họ chỉ trang bị lưới và móc để giữ các loại máy bay phản lực khi đáp xuống, không dự trù cho trườøng hợp của tôi.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Khi biết trước như vậy mà anh còn cố đáp xuống, anh có nghĩ là quá liều lĩnh không?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Dĩ nhiên là liều mạng rồi, vì không đáp xuống HKMH thì phải đáp xuống biển thôi.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Vậy trước khi quyết định hạ cánh, tâm trạng anh ra sao?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Nếu bây giờ tôi còn nhớ được tâm trạng lúc đó ra sao thì tôi thành Superman rồi chú ạ.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Ồ, em quên, ông anh cho biết trên máy bay L19, ông anh chở những ai?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Máy bay L19 chỉ có một chỗ cho hoa tiêu, một chỗ cho ông quan sát, nhưng tôi chơi luôn 7 mạng, tôi, vợ và 5 đứa con. Chính điều này làm người Mỹ rất sợ, vì chở quá trọng tải!<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Khi bay, anh có cho chị và mấy cháu biết là sắp đáp xuống HKMH không?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Không. Cho bả biết, bả và mấy đứa nhỏ sợ thì hỏng chuyện.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Trước khi hạ cánh, anh có tin tưởng sẽ đáp xuống an toàn không?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Tin chứ, không tin sao dám đáp?<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span> Lúc máy bay của anh dừng trên HKMH, mũi tàu còn khoảng cách bao xa thì lọt xuống biển?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Lúc đó mừng quá rồi ai mà nhớ, nhưng tôi nghĩ cũng còn một khoảng cách ngắn nữa.</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Làm sao một phi đạo ngắn như vậy, anh đáp xuống được?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Khi máy bay vừa chạm sàn tàu, tôi tắt máy ngay, đó là nguyên tắc đáp ngắn.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Khi máy bay của anh hạ cánh an toàn, chuyện gì xảy ra?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Ôi, họ túm lại bồng tôi rồi bồng vợ, con tôi ra. Họ ríu rít hỏi han và tỏ ý rất khâm phục, họ dẫn chúng tôi lại gặp Hạm Trưởng, sau đó một Hạm Trưởng ở chiếc khác hay tin cũng bay đến gặp tôi chúc mừng. Người Mỹ họ rất cảm phục mình, thứ nhất là máy bay chở quá mức, thứ hai là dám đáp xuống HKMH bằng L19 và thứ ba là không có vô tuyến liên lạc.<br /></div><br /><table border="0" cellspacing="8" cellpadding="0" width="326" align="right"><tbody><tr><td><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S7WJyj0H6DI/AAAAAAAAIis/FN7kH-TLog0/s1600/BungLee3.Interview.jpg"><img style="WIDTH: 360px; HEIGHT: 278px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5455418025329551410" border="0" alt="" src="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S7WJyj0H6DI/AAAAAAAAIis/FN7kH-TLog0/s400/BungLee3.Interview.jpg" /></a> <div style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(102,102,102)" align="left"><span style="font-size:85%;">Các phóng viên ngoại quốc phỏng vấn Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng - ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp</span></div></td></tr></tbody></table><div style="TEXT-ALIGN: justify"><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Sau đó họ đưa anh và gia đình đi đâu?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Họ tiếp đãi rất nồng hậu, sau đó chuyển qua một chiếc tàu thương mại chở qua Subic Bay (Phi Luật Tân). Ở đó 1, 2 đêm, rồi họ chở về Guam và rồi từ Guam qua đây.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Sau đó, chiếc máy bay L19 do anh lái họ để ở đâu?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Chiếc L19 tôi lái là chiếc máy bay duy nhất được đem toàn vẹn qua Hoa Kỳ và trưng bày trong Bảo Tàng Viện Hải Quân của tiểu bang Florida.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Từ đó đến nay, đã có lần nào anh tới nhìn lại chiếc L19 đó, và nếu có thì cảm nghĩ của anh như thế nào?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Tôi có đến xem và thấy vẫn nguyên vẹn, còn cảm nghĩ thì mình cám ơn nó đã giúp đưa mình đến HKMH an toàn.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Vào ngày 30-4 sắp tới, nghe nói Ban Tổ chức có mời anh qua dự?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Đúng, họ có mời tôi.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Giả sử họ trao cho anh một chiếc L19 và yêu cầu anh bay biểu diễn rồi đáp xuống USS Midway một lần nữa cho bà con coi chơi, anh có dám không?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Dám chớ sao không? Làm thì làm chớ. Lâu quá rồi, với lại mình già rồi nhưng chắc cũng không đến nỗi tệ, vì quen như mình cầm đũa ăn cơm vậy mà!<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Phục ông anh lắm. Vậy năm người con của anh, có ai nối nghiệp bố không anh?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Không, tụi nó nói: “Bố gan quá! Tụi con không dám!”.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Thế còn chị nhà, từ sau khi anh hạ cánh an toàn trên HKMH đến nay, có khi nào chị nhắc lại chuyện cũ và tưởng thưởng cho anh không?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Bả nói, sao mà đưa bả qua đây làm chi? Còn thưởng thì thưởng lâu rồi! Riêng mấy bà bạn bả hỏi thì bả nói: Ổng làm cái gì thì ổng làm, chứ tôi có biết gì đâu!<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Còn người Mỹ thì sao? Họ có gặp anh phỏng vấn không?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Mỹ thì họ làm hoài đó chứ. Lần nào họ viết bài họ cũng nói họ rất khâm phục phi công VNCH, gan dạ cùng mình.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Tại sao lần này họ tổ chức 30-4 trên USS Midway?</span><br /></div><br /><table border="0" cellspacing="8" cellpadding="0" width="326" align="left"><tbody><tr><td><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S7WJyRrHPkI/AAAAAAAAIik/HeASBIDO2z0/s1600/BungLee-USS-Midway-Bird-Dog.jpg"><img style="WIDTH: 360px; HEIGHT: 239px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5455418020459920962" border="0" alt="" src="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S7WJyRrHPkI/AAAAAAAAIik/HeASBIDO2z0/s400/BungLee-USS-Midway-Bird-Dog.jpg" /></a> <div style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(102,102,102)" align="left"><span style="font-size:85%;">BungLee-USS-Midway-Bird-Dog. Chiếc “Bird Dog” L19 vừa được treo lên triển lãm tại Bảo Tàng Viện USS Midway, chuẩn bị mở cửa vào ngày 30-4-2010 sắp tới – Ảnh: Bảo Tàng Viện USS Midway cung cấp.</span></div></td></tr></tbody></table><br /><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify">Chiếc “Bird Dog” L19 vừa được treo lên triển lãm tại Bảo Tàng Viện USS Midway, chuẩn bị mở cửa vào ngày 30-4-2010 sắp tới – ảnh: Bảo Tàng Viện USS Midway cung cấp.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng: </span>Chiếc USS Midway này đã quá cũ nên chính phủ Mỹ đưa qua San Diego, biến nó thành cái Bảo Tàng Viện như một chứng tích của cuộc chiến. Trong đó một phần cũng do cái chuyện đáp L19 của tôi làm cho nhiều người tò mò đến xem, nên họ đã làm một cái L19 khác giống như chiếc tôi lái và để trên HKMH cho du khách xem, nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày mất miền Nam.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Viễn Đông: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Thôi, làm phiền anh vậy đủ rồi, cám ơn anh và mong gặp anh ngày 30-4 trên USS Midway.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Th/Tá Lý Bửng:</span> Cám ơn chú.<br /><br /><a href="http://www.viendongdaily.com/Contents.aspx?contentid=+7724&item=94"><span style="FONT-STYLE: italic">Source: http://www.viendongdaily.com/Contents.aspx?contentid=+7724&item=94</span><br /></a></div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-53803739456856288782010-04-02T08:09:00.004+11:002010-04-02T08:17:00.868+11:00Phát biểu của Đại tá Lương Sơn Việt thế hệ thứ hai VNCH<center><span style="COLOR: rgb(0,0,102);font-size:130%;" >Luong's Address to Vietnamese Conference</span><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg5P3pdywCpEd4zXlrdowIyc5N3hTyqqM2MzXOT2YoL8MS9JGU5dkcjqzT54a0i4IizJ1RTRcdafqrJ6EirN1B5oSXwM87KkvEnyPMSNclprtmOtNSt6LJ2AeZZTTVBCNGpqJrBqBOBDIk/s1600/luongsonviet.jpg"><img style="WIDTH: 366px; HEIGHT: 500px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5455275213164501538" border="0" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg5P3pdywCpEd4zXlrdowIyc5N3hTyqqM2MzXOT2YoL8MS9JGU5dkcjqzT54a0i4IizJ1RTRcdafqrJ6EirN1B5oSXwM87KkvEnyPMSNclprtmOtNSt6LJ2AeZZTTVBCNGpqJrBqBOBDIk/s400/luongsonviet.jpg" /></a><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102)">Đại Tá Lương Sơn Việt</span></center><ul><strong>3rd Brigade Combat Team, 101st Airborne Division (AA) Public Affairs</strong></ul><span style="COLOR: rgb(192,192,192);font-size:85%;" >Video by Sgt. Victor Gardner<br /></span><div style="PADDING-BOTTOM: 5px; PADDING-LEFT: 0px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 5px"><span style="COLOR: rgb(192,192,192);font-size:85%;" >Date Taken: 03.22.2010<br />Posted: 03.22.2010 09:59<br />Video Location: AF</span><br /><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify">This is an adress by Col Luong to a Vietnamese Conference near Wash. D.C.<br />Produced by Sgt. Victor Gardner.<br /></div><br /><center><object data="/flvplayer.swf" width="520" height="335" type="application/x-shockwave-flash"><embed src="http://www.dvidshub.net/player-viral.swf" bgcolor="0x000000" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" flashvars="viral.onpause=false&viral.callout=none&repeat=true&lightcolor=0xCC0000&backcolor=0x000000&frontcolor=0xCCCCCC&file=http%3A%2F%2Fwww.dvidshub.net%2Fmedia%2Fvideo%2F1003%2FDOD_100066496.flv&plugins=viral-1d" height="320" width="520"></embed></object></center><br /><span style="COLOR: rgb(204,204,204);font-size:85%;" ><span style="FONT-STYLE: italic">Source: <a href="http://www.dvidshub.net/?script=video/video_show.php&id=81520">http://www.dvidshub.net/?script=video/video_show.php&id=81520</a></span></span><br /></div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-33800490475460749962010-01-30T18:23:00.004+11:002010-01-30T18:33:37.956+11:00Trận Mưa Bom Giáng Sinh Năm 1972 - Trọng Đạt<center><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaOdv5x1-scj5EnfbSf1UhcwxNmf4V9LHsugEWOpCoVpVNIzgk1J26eHfGEp7mMIpAZ-dBVOm9TX6iVeS3yR3zf5FThh9tnRKLS7c6xwjdUfMw4ccbek8pppCg-33_1JXawROw8Sm-LBs/s1600-h/CT_231209_BOM.gif"><img style="WIDTH: 500px; HEIGHT: 383px; CURSOR: hand" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432430419364864322" border="0" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaOdv5x1-scj5EnfbSf1UhcwxNmf4V9LHsugEWOpCoVpVNIzgk1J26eHfGEp7mMIpAZ-dBVOm9TX6iVeS3yR3zf5FThh9tnRKLS7c6xwjdUfMw4ccbek8pppCg-33_1JXawROw8Sm-LBs/s400/CT_231209_BOM.gif" /></a></center><p align="justify"><br /><strong><em><span style="font-size:85%;">Trọng Ðạt<br /></span></em></strong><br />Sau trận tổng công kích Tết Mậu Thân Tổng thống Johnson quá mệt mọi vì cuộc chiến tranh Việt Nam và nhất là vì cuộc chiến tại đất nhà, war at home ngày một lan rộng vì sự thổi phồng của truyền hình báo chí. Ngày 31-3-68, ông tuyên bố không tái tranh cử và tạm thời cho ngưng oanh tạc một phần lớn lãnh thổ Bắc Việt từ vĩ tuyến thứ 20 trở lên, ông kêu gọi Hà Nội hãy tỏ thiện chí hoà đàm nếu không sẽ cho nếm mùi sức mạnh. Một tháng sau Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) nhận lời đàm phán.<br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEibPnbTTfsTYxEvXmnPAX-WKa-XiY6V1icwx-gJmNqOkp4SkeM0ae3lpOd1gwT3EMDQSoHkYOaoJJpAoHqhlIViHEg5U9ItWEQlzs4QND1sdTU4rpvY7WoMAJf6B1MrWerEOnjzN5f3nWM/s1600-h/CT_231209_BOM2.gif"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 280px; CURSOR: hand" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432430410257439602" border="0" hspace="5" alt="" align="left" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEibPnbTTfsTYxEvXmnPAX-WKa-XiY6V1icwx-gJmNqOkp4SkeM0ae3lpOd1gwT3EMDQSoHkYOaoJJpAoHqhlIViHEg5U9ItWEQlzs4QND1sdTU4rpvY7WoMAJf6B1MrWerEOnjzN5f3nWM/s400/CT_231209_BOM2.gif" /></a>Hội nghị được tổ chức tại khách sạn Majestic, thủ đô Ba Lê nước Pháp khai mạc ngày 10-5-1968 (có tài liệu nói ngày 13-5), ông W. Averell Harriman đại diện phía Mỹ, Xuân Thủy phía Hà Nội. Ðây là một hội nghị được quốc tế chú ý nhất từ trước tới nay có hơn 3,000 phóng viên các nước tới theo dõi lấy tin. Phía Xuân Thủy đề nghị BV nói chuyện với Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hoà nói chuyện với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam . Phía VNCH cực lực phản đối cho đó là thái độ hỗn xược, hai phía mất 9 tuần để thảo luận về cái bàn hội nghị cuối cùng họ thoả thuận cái bàn hình tròn. BV lợi dụng bàn hội nghị để tuyên truyền chống Mỹ, rêu rao tội ác chiến tranh của Mỹ gây ra cho nhân dân miền Bắc, họ một mực đòi Mỹ phải ngưng oanh tạc toàn diện miền Bắc .<br /><br />Ngày 31-10-1968 Johnson nhượng bộ cho ngưng dội bom trên toàn miền Bắc. Ðúng năm sau, kỷ niệm ngày khai mạc 1969 các ký giả quốc tế kỷ niệm Hoà đàm và đặt tên là “cuộc nói chuyện giữa những người điếc” vì hai bên lập trường đối chọi nhau hoàn toàn, suốt một năm dài không có kết quả nào đáng kể, BV vừa đánh vừa đàm. Mấy năm trôi qua, theo cựu Ðại Tướng Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối VNCH) vào tháng 6, 7, 8 -1971 tất cả các đề nghị của Hoa Kỳ đều bị từ chối dù Hoa Kỳ cố gắng thay đối theo ý muốn của BV.<br /><br />“Ðến lần nói chuyện vào tháng 9 thì Hoa Kỳ mới mới hiểu ý định thật sự của cộng sản: Họ muốn Hoa Kỳ trao miền Nam cho họ trước khi Hoa Kỳ rút quân. Phải cần đến ba năm dài thương lượng Hoa Kỳ mới thấy được ý đồ của Cộng Sản!”<br />(Trang 33)<br /><br />Cuối tháng 3-1972, BV đem đại binh tấn công qui mô trên toàn lãnh thổ VNCH, tổng cộng 10 sư đoàn chính qui có xe tăng, đại bác phòng không yểm trợ đánh ba tỉnh lớn Bình Long, Kontum, Quảng Trị… cho tới giữa tháng 9-1972 VNCH tái chiếm cổ thành Quảng Trị và cuộc chiến được gọi Mùa hè đỏ lửa chấm dứt. BV bi thiệt hại nặng khoảng từ 70 cho tới 100 ngàn cán binh, phía VNCH vào khoảng 30 ngàn người, không quân và Hải quân Mỹ yểm trợ tối đa, người Mỹ muốn VNCH phải thắng để lấy ưu thế tại bàn hội nghị. Người Mỹ đã mở lai các cuộc oanh kích miền Bắc để trả đũa BV, họ gọi là Operation Linebacker bombing, chiến dịch oanh tạc Linebacker bắt đầu từ 10-5 đến 23-10-1972.<br /><br />Cuối năm 1972 Hoa Kỳ mở chiến dịch Linebacker II (Linebacker thứ hai) đây là chiến dịch oanh tạc của không quân nhằm vào BV trong giai đoạn chót của Mỹ trong chiến tranh VN từ 18-12 tới 29-12-1972, cũng được gọi vui là Christmas bombing, cuộc oanh tạc vào dịp Giáng sinh. Ðây là cuộc oanh tạc lớn nhất của không quân Mỹ từ sau Thế chiến thứ hai, nó là sự tiếp tục của Chiến dịch Linebacker kể trên , điều khác biệt là Linebacker II oanh tạc bằng B-52 chứ không bằng máy bay chiến thuật như Linebacker.<br /><br />Ngày 8-10-1972 Kissinger và Lê đức Thọ gặp nhau ở Ba Lê để thảo luận về những đề nghị mới của hai phía tìm kiếm hoà bình. Lê Ðức Thọ đề nghị kế hoạch mới của BV: Ngưng bắn tại chỗ, Mỹ rút quân, trao đổi tù binh, BV, VNCH, Chính phủ lâm thời của Mặt trận giải phóng, giữ nguyên, BV không đòi Thiệu từ chức , Mỹ vẫn tiếp tục viện trợ cho VNCH, cả Hà Nội và Mỹ đều được tiếp tục viện trợ cho đồng mninh trên căn bản đồng đều nhau, BV sẽ không xâm nhập, Mỹ sẽ tái thiết BV . Thành lập Hội đồng quốc gia hoà giải dân tộc, thực hiện bầu cử tại miền Nam VN, sẽ có ba quyền lực: Chính phủ Sài Gòn, Mặt Trận giải phóng , Thành phần thứ ba gồm đại diện cả hai bên. Cả ba phải có sự nhất trí, mọi hành động của hội đồng mới phải có sự đồng ý của TT Thiệu.<br /><br />Ngày 11-10-1972 toà đại sứ Pháp tại Hà Nội bị thiệt hại trong cuộc ném bom của Mỹ, Ðại sứ Pháp Pierre Susini bị thương nặng Lê Ðức Thọ phản đối với Kissinger, Hoa kỳ ngưng oanh tạc 23-10. Ngày 16-10 Kissinger trở lại Paris họp với Xuân Thuỷ trong khi Lê Ðức Thọ đang về Hà Nội Hai bên lại họp ngày 17-10-1972 , họ bất đồng ý kiến hai điểm: Việc thay thế định kỳ vũ khí của miền nam VN, thả tù binh CS do VNCH giam giữ. BV muốn ký hiệp định trước tháng 11-1972, họ tin rằng Nixon sẽ nhượng bộ trước kỳ bầu cử Tổng thống sắp tới hơn là sau. Kissinger đồng ý những điều khoản mới, ông cho Nixon biết và được Nixon chấp thuận.<br /><br />Sơ thảo Hiệp định sẽ được ký tại Hà Nội ngày 31-10-1972. Kissinger bay đến Sài Gòn ngày 18-10 để gặp TT Thiệu, VNCH không đồng ý với bản hiệp định mới và không hài lòng với Kissinger cho là đã phản bội, ông Thiệu đòi sửa 129 điều khoản trong đó đòi khu phi quân sự phải coi như biên giới quốc gia, không còn là ranh giới tạm thời, VNCH phải được coi như một quốc gia biệt lập. Sử gia Stanley Karnow chua chát nói:<br /><br />“Mỹ chiến đấu bảo vệ nền độc lập của miền nam VN bây giờ lại phủ nhận tính hợp pháp của nó”<br /><br />Ngày 26-10 ông Thiệu tiến thêm một bước, công bố bản dự thảo đã được sửa khi ấy giới lãnh đạo miền Bắc cho rằng Kissinger đã đánh lừa họ, họ bèn công bố một số phần của thoả ước cho người ta cảm tưởng rằng thoả ước phù hợp mục đích của Hoa Kỳ và chính phủ VNCH. Kissinger muốn tạo niềm tin cho cả hai miền, ông quả quyết với BV rằng mình thật tình và với Sài Gòn rằng Mỹ đã gây hiểu lầm. Kissinger họp báo tại toà Bạch ốc tuyên bố ta có thể tin hoà bình đang ở trong tầm tay (We believe that peace is at hand).<br /><br />Ngày 20-11 những điều khoản tu sửa của VNCH và 44 điều khoản thay đổi do Nixon yêu cầu đã được Kissinger trao cho phái đoàn CSVN. Những khoản yêu cầu gồm: Khu phi quân sự được coi như ranh giới quốc tế giữa hai nước, quân đội CSBV rút về Bắc, BV bảo đảm ngưng bắn lâu dài tại Ðông Dương , một lực lượng quốc tế giữ gìn hoà bình sẽ được thành lập để quan sát ngưng bắn. Khi đọc xong, phía BV rút những nhượng bộ và mặc cả thêm khiến Kissinger bèn nói dậm chân tại chỗ rồi. Cuộc nói chuyện dự trù 10 ngày chấm dứt ngày 13-12 với thoả thuận của hai bên bắt đầu thương thảo, chuyên viên hai phía bàn về thảo ước ngày 14-12, trong khi BV đưa ra một bản tiếng Việt liên quan đến tù binh gồm vài thay đỏi lớn mà Hà Nội đã không đạt được trong những phiên họp chính . Trong một phiên họp của các chuyên gia ngày 16-12, BV gây trở ngại từ đấu chí cuối, cuộc đối thoại tan vỡ hôm ấy, phái đoàn Hà Nội từ chối không chịu tiếp tục đàm phán..<br /><br />Nixon đang định kỳ hạn cho ngày ký Hiệp Ðịnh tháng 1-1973, lời tuyên bố của Kissinger khiến dân Mỹ tin tưởng, kỳ vọng ở thoả hiệp. TT Nixon lo phiên họp Quốc hội thứ 93 sẽ bắt đầu ngày 3-1-1973, ông sợ các nhà lập pháp Dân chủ sẽ ban hành luật chấm dứt chiến tranh trước khi ông thực hiện cam kết hoà bình trong danh dự của ông . Phía BV đánh hơi thấy phiên Quốc hội trong tháng 1-1973 có thể ban hành luật chấm dứt chiến tranh Ðông Dương đến lúc ấy thì bất chiến tự nhiên thành. Ðó là một lỗi lầm tai hại của họ đưa tới trận đòn te tua nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh VN.<br /><br />Tổng thống Nixon quan tâm trước hết chi phí chiến dịch Linebacker, máy bay, nhân lực gửi tới Ðông Nam Á đè nặng lên ngân sách Ngũ giác đài, tổng cộng 4 tỷ vào giữa mùa thu và Bộ trưởng quốc phòng Melvin Lair đã khẩn khoản đề nghị Nixon xin Quốc hội một ngân khoản để trang trả. Kissinger và Nixon được biết lập pháp sẽ có thể nắm cơ hội để đưa nước Mỹ ra khỏi cuộc chiến.<br /><br />Kissinger từ Paris về ngày 14-12 ông bàn với Nixon sau đó gửi tối hậu thư cho Hà Nội đe doạ nếu BV không trở lại bàn hội nghị trong 72 giờ đồng hồ (3 ngày) sẽ đưa tới hậu quả nghiêm trọng. Cũng trong ngày Nixon ra lệnh phong toả cảng Hải Phòng bằng máy bay thả mìn và lệnh cho Bộ tư lệnh không quân nghiên cứu kế hoạch oanh tạc trong giới hạn 72 giờ. Thời hạn tối hậu thư đã qua, hai hôm sau ngày 16-12 đã qua, Mỹ ném bom Hà Nội. Các sử gia nghiên cứu về cuộc chiến Ðông Nam Á đồng ý với quan điểm của Nixon cho rằng BV ngoan cố không chịu trở lại phòng họp. Hai bên đã muốn thương thảo nhưng BV lại từ chối trở lại, họ chờ phiên họp sắp tới của Quốc Hội. Mục đích của TTNixon không phải để thuyết phục BV mà để thuyết phục ông Thiệu, Nixon cho biết dù điều khoản của hiệp định ngưng bắn như thế nào, VNCH có thể tin vào lời hứa của ông sẵn sàng yểm trợ cho miền Nam khi BV vi phạm hiệp định.<br /><br />Sau chiến dịch Linebacker, Hoa Kỳ có 207 B-52 dành cho chiến trường Ðông Nam Á, gồm 54 chiếc (mẫu B-52-D) đóng tại phi trường U-Tapao Thai Land và 153 chiếc khác tại căn cứ Andersen, đảo Guam (gồm 55 chiếc B-52 D và 98 B-52G).<br /><br />Chiến dịch coi như xử dụng một nửa số máy bay B-52 của Không đoàn oanh tạc cơ Mỹ, các vị chỉ huy của của Bộ chỉ huy chiến thuật không quân miễn cưỡng chấp nhận sự xử dụng những máy bay đắt giá và những phi hành đoàn huấn luyện tốn kém. Sự huy động một lực lượng máy bay B-52 lớn chưa từng thấy trong cuộc chiến và dự án tấn công đại qui mô quanh Hà Nội 20 km cho thấy thể hiện sự thay đổi lớn trong viêïc huy động lực lượng không quân.<br /><br />“Không Lực Hoa Kỳ, qua chỉ thị thẳng từ Nixon , phải dùng B-52 đánh thẳng vào Hà Nội và Hải Phòng … “để lần này đối phương không còn giỡn mặt”<br /><br />Nguyễn Kỳ Phong, Vũng Lầy Của Bạch Ốc, trang299.<br /><br />Nhiều vị trong Bộ chỉ huy cũng đồng ý với chiến dịch bay vào màng lưới phòng không dầy đặc của BV hy vọng chứng tỏ các oanh tạc cơ có khả năng vượt qua hệ thống hoả tiễn tinh khôn địa không SAM (surface- to- air missiles ) do Nga chế tạo cũng như súng phòng không và máy may nghênh chiến MIG. Lý do chính phải dùng B-52 cho chiến dịch thay vì phi cơ chiến thuật vì tháng 12 thuộc mùa mưa tại miền Bắc VN, thời tiết xấu gây khó khăn cho các phi cơ chiến thuật vì các máy bay này cần quan sát bằng mắt, B-52 có khả năng tham chiến dù thời tiết xấu cũng như tốt nên đã được chọn giữ vai trò then chốt cho chiến dịch này. B-52 đã được trang bị hệ thống bom vận hành theo radar và các máy bay yểm trợ. Các pháo đài bay này có thể tấn công mục tiêu hoặc với những bom có tia laser hướng dẫn khi thời tiết tốt hoặc dùng hệ thống oanh tạc do radar hướng dẫn.<br /><br />Chiến dịch này lấy tên Linebacker II được phác hoạ tại Bộ chỉ huy không quân tại Omaha, Nebraska, vì giới hạn thời gian chỉ có ba ngày và qua kinh nghiệm của chiến dịch trước (Linebacker) theo đó máy bay MIG nghênh chiến sẽ là mối đe dọa cho oanh tạc cơ Mỹ. Các vị chỉ huy lên kế hoạch cho máy bay tới Hà Nội làm ba đợt vào ban đêm, mỗi đợi cùng đi một đường , cùng cao độ, các oanh tạc cơ bay theo đội hình ba chiếc ( gọi là cells) để tăng hiệu quả .<br /><br />Mỗi khi ném bom xong các máy bay sẽ quay về về phía tây mà Bộ tham mưu gọi là chuyển hướng sau mục tiêu (post-target turns, gọi tắt PTT), sự chuyển hướng này sẽ có hai hiệu quả không thuận lợi cho các oanh tạc cơ B-52 có thể hướng vào cơn gió mạnh ngược chiều, nó sẽ làm giảm tôc độ còn 185 km/giờ và sẽ kéo dài thêm thời gian ở tại mục tiêu có thể làm giảm hiệu quả đội hình cũng như trở thành bia cho radar của hoả tiễn SAM dưới đất<br /><br />Giai đoạn sơ khởi. Trong ba nhiệm vụ của chiến dịch như Bộ chỉ huy chiến dịch đã đề ra trong ba đêm liên tiếp bắt đầu từ 18-12, đêm đầu tiên 129 máy bay được tung vào chiến dịch, trong đó 87 chiếc từ Guam, 39 chiếc yểm trợ thuộc Bộ tư lệnh không lực 7 (The seven air force), Lực lượng đặc nhiệm 77 Hải quân, và Thủy quân lục chiến yểm trợ các oanh tạc cơ B-52 qua sự cung cấp các máy bay F-4 hộ tống, F-105 Wild Weasel để tiêu diệt hoả tiễn SAM của BV, máy bay EB-66 thuộc không quân và EA-6 thuộc hải quân, máy bay chaff plane, loại máy bay thả những miếng kim loại dát mỏng (chaff) để gây rối loạn radar đối phương, (chaff= tiny strips of metal foil that are dropped to confused radar), KC-135 tiếp tế nhiên liệu trên không, và các máy bay giải cứu phi hành đoàn .<br /><br />Mục tiêu của đợt thứ nhất là phi trường Kép, Phúc Yên và Hoà Lạc, một nhà kho tại Yên Viên trong khi đợt thứ hai và thứ ba tấn công các mục tiêu quanh Hà Nội. Ba máy bay bị rớt do khoảng 220 hoả tiễn SAM của BV , trong số này hai chiếc B-52G từ Guam và một B-52-D từ U-Tapao Thái lan, ngoài ra hai B-52 D từ Guam bị thương nặng cố lết về U-Tapao sửa chữa, chỉ có một phi hành đoàn của ba máy bay bị hạ được giải cứu, cũng tối hôm ấy một F-111 của không quân bị bắn hạ trong khi ném bom đài phát thanh Hà Nội.<br /><br />Khác với chiến dịch Linebacker đã được thực hiện từ tháng 5 tới tháng 10-1972 để trả đũa BV trong trận tấn công Mùa hè đỏ lửa 1972, Tổng thống Nixon không lên tiếng với nhân dân trên đài truyền hình để giải thích lý do leo thang. Nhưng trong khi ấy theo chỉ thị Nixon, Kissinger họp báo lên án Lê Ðức Thọ đã kéo lùi lại một số khoản đã thoả thuận từ tháng 10-1972.<br /><br />Ðêm thứ hai (19-12) có 97 phi vụ do oanh tạc cơ B-52 tham dự , mục tiêu gồm sở Hoả xa Kinh No và kho hàng lân cận, nhà máy nhiệt điện Thái Nguyên cũng như nhà ga Yên Viên. Mặc dù có khoảng 185 hoả tiễn SAM do BV phóng lên và một số oanh tạc cơ bị hư hại vì trúng đạn nhưng không cái nào bị rớt. Bộ chỉ huy hy vọng đêm thứ ba, tức đêm cuối của chiến dịch cũng sẽ tốt đẹp như lần trước .<br /><br />Mục tiêu thứ ba ngày 20-12 do 99 oanh tạc cơ thực hiện gồm ga xe lửa Yên Viên, nhà kho Yên Mô, nhà máy điện Thái Nguyên, địa điểm bốc rỡ hàng tại Bắc Giang, nhà ga Kinh Nơ, kho nhiên liệu săng dầu tại cũng như gần Hà Nội .<br /><br />Vì thấy đợt hai bị thiệt hại nhẹ, đợt ba được tiến hành y như trước, đó là một lỗi lầm tai hại, phía Mỹ ra chiều tự mãn với phương thức trước. Trong đêm thứ ba BV cũng học được kinh nghiệm qua phương thức ấy, pháo đài bay B-52 khi tiến vào Hà Nội thấy MIG ở xa xa nhưng chúng không nghênh chiến mà chỉ để báo cáo cho dưới đất biết cao độ và tốc độ của máy bay Mỹ. Thế là hoả tiễn địa không và đại bác phòng không BV bắn xả láng lên các máy bay Mỹ, lộ trình tái diễn, ngựa quen đường cũ đã đưa tới thảm bại cho Mỹ , 6 B-52 bị bắn rơi trong đêm thứ ba (gồm hai B-52D và bốn B-52G), sự thiệt hại nặng của những B-52 trị giá 8 triệu khiến Quốc Hội và người dân phẫn nộ, họ yêu cầu chấm dứt oanh tạc. BV muốn ngừng đàm phán đợi tới kỳ họp Quốc hội tháng 1-1973 hy vọng Quốc hội ban hành luật chấm dứt chiến tranh VN là khoẻ re khỏi phải đàm phán.<br /><br />Vì đợt ba tái diễn như hai lần trước khiến phòng không BV đã có kinh nghiệm và phóng 300 quả lên mục tiêu sáu B-52G và ba B-52D bị thiệt hại trong đợt tấn công thứ nhất và thứ ba, một B-52D quay về Thái Lan bị rớt ở Lào. Chỉ có hai trong số tám người của phi hành đoàn được cứu thoát. Chiến dịch gây phản ứng dữ dội, Bộ chỉ huy không quân bị áp lực nhiều phía: “Chấm dứt cuộc tắm máu này!”, nhiều sĩ quan cao cấp trong Bộ chỉ huy không quân cho rằng ta có thể mất nhiều oanh tạc cơ và thuyết ưu thế của không quân có thể vô nghĩa.<br /><br />Vấn đề chính ở chỗ chiến thuật của Bộ chỉ huy không ghi nhận sự đe doạ của máy bay MIG trong ba đợt của chiến dịch . Chiến thuật không thay đổi vể đường bay, cao độ, đội hình, thời gian. Các vị chỉ huy giải thích sự không thay đổi ấy sẽ thuận lợi cho các phi hành đoàn B-52 không có kinh nghiệm bay vào một trận địa nguy hiểm. Nhà sử gia về không quân Earl Tilford lại có ý kiến khác:<br /><br />“Sau nhiền năm oanh tạc những khu rừng không phòng ngự và thói quen phác họa kế hoạch chiến tranh nguyên tử đã nuôi dưỡng một định kiến trong tư tưởng các vị chỉ huy suýt đưa tới tai họa … chiến thuật nghèo nàn kết hợp với tính tự tin quá cao đã khiến cho mấy đợt bay tấn công đầu tiên của chiến dịch thành cơn ác mộng cho các phi hành đoàn B-52”<br /><br />Operation Linerbacker II<br /><br />Tổng thống Nixon cho lệnh tiếp tục sau ba ngày kể trên. Thay đổi thứ nhất ta thấy được do các vị chỉ huy tại Mỹ phân biệt sự khác biệt giữa các cơ phận radar của các mẫu B-52 (B-52G, B-52D), thiết bị trên mẫu G được xử dụng để ứng phó với các dàn phòng không tinh khôn, tối tân do Nga chế tạo, nó không phải để ứng phó với các hoả tiễn SAM-2 xưa cũ và hệ thống radar của BV. Các vị chỉ huy không quân tại Omaha nhấn mạnh chỉ có máy bay tại U-Tapao được trang bị các bộ phận tinh khôn mới được đưa vào trận địa tại BV. Do đó các đợt tấn công bị cắt giảm về tầm vóc (số lượng máy bay) mặc dù chiến thuật không thay đổi.<br /><br />Tối thứ tư 21-12 của chiến dịch, 30 chiếc oanh tạc cơ từ U-Tapao đến thả bom kho kho hàng thuộc địa phận Hà Nội, Văn Ðiển, phi trương Quảng Tề. Hai oanh tạc cơ bị hoả tiễn SAM bắn rớt. Ðêm hôm sau 22-12 mục tiêu được chuyển từ Hà Nội xuống Hải Phòng nhắm vào kho săng dầu nhiên liệu. Lần này cũng 30 máy bay tham dự trận đánh, không bị thiệt hại về B-52 nhưng một F-111 bị bắn rớt xuống nhà ga Kinh Nơ.<br /><br />Ngày 22-12 một cánh của bệnh viện Bạch Mai ngoại ô Hà Nội bị một chuỗi bom lạc đánh trúng. Sự thiệt hại đã khiến BV và các nhà phản chiến Mỹ làm ầm lên, bệnh viện này cách đường bay của phi trường Bạch mai 100 m và một kho quân sự chỉ cách đó chưa tới 200 m, bệnh nhân đã được di tản nhưng không may 28 bác sĩ, y tá, dược sĩ bị thiệt mạng.<br /><br />Hai ngày trước Giáng Sinh , các vị chỉ huy không quân đưa các căn cứ SAM và các phi trường vào danh sách mục tiêu, máy bay F-111 của Không quân được đưa tới trước khi oanh tạc cơ đến để giảm mối nguy của máy bay địch lên nghênh chiến. F-111 đã rất thành công trong chiến dịch tiêu diệt các dàn hoả tiễn địa không của BV.<br /><br />Ðêm thứ sáu 23-12 các oanh tạc cơ cũng tránh Hà Nội và tấn công các vị trí hoả tiễn địa không tại phía bắc thành phố và ga xe lửa Lạng Ðăng. Không bị thiệt hại máy bay nào, đêm hôm sau cuộc hành trình may mắn (cũng tránh Hà Nội) tiếp tục. 30 oanh tạc cơ B-52 được 69 phi cơ chiến thuật yểm trợ tấn công nhà ga Thái Nguyên và Kép, không có máy bay nào của Mỹ bị mất trong chiến dịch này.<br /><br />Mặc dù B-52 đảm nhiệm vai trò chính nhưng các phi cơ chiến thuật cũng rất tích cực trong việc yểm trợ. Trong khi các pháo đài bay và phi cơ F-111 thực hiện các phi vụ trong ban đêm, trung bình 69 máy bay chiến thuật của Không quân, Hải quân Thủy quân lục chiến tấn công ban ngày, trung bình gần 100 phi xuất một ngày. Sự thiệt hại của những phi cơ này rất nhẹ, chỉ hơn mười chiếc trong toàn bộ chiến dịch, lý do cũng không có gì khó hiểu vì phòng không BV chỉ đợi ban đêm mới chống trả dữ dội các mục tiệu xuất hiện<br /><br />Sau trận oanh kích ngày 24 -12 , chiến dịch ngưng 36 giờ để mừng Giáng Sinh 1972, trong khi đó các nhà kế hoạch gia không quân làm việc, họ duyệt lại chiến thuật cho giai đoạn kế tiếp tức giai đoạn chót. Vì bị thiệt hại ở giai đoạn đầu nên họ dự trù một cuộc tấn công dữ dội vào các phi trường BV khi bắt đầu tấn công trở lại. Giai đoạn này cũng cần thiết, từ Giáng Sinh hầu hết các mục tiêu chiến thuật của BV đã bị phá tan nát hết. Sau đó các vị chỉ huy đã giao kế hoạch chiến thuật cho thuộc cấp tại Không Lực tám (Eighth Air Force) đóng tại Guam, tại đây người ta nhanh chóng duyệt lại chiến thuật đã có nhiều thiệt hại trước đây.<br /><br />Nay thay vì tấn công nhiều đợt, các oanh tạc cơ có thể đánh và rút tại mục tiêu trong vòng 20 phút, các pháo đài bay này có thể đến từ nhiều hướng và nhiều cao độ khác nhau. Các oanh tạc cơ có thể tùy nghi muốn rút theo đường nào thì rút, kế họach rút về hướng tây (Post-target turns) trước đây bị loại bỏ. Các pháo đài bay đến từ bẩy địa điểm khác nhau sẽ tấn công mười mục tiêu trong phạm vi Hà Nội, Hải Phòng, trong đó có bốn địa điểm từ vịnh BV.<br /><br />Ngày 26 -12, 120 oanh tạc cơ cất cánh ném bom ga xe lửa Thái Nguyên, Kinh Nơ, đường xe lửa Ðức Nội, Hà Nội, Hải Phòng và khu nhà ga Vân Ðiển , 78 oanh tạc cơ xuất phát từ Anderson (Guam), đó là trận oanh tạc trong một lần lớn nhất trong lịch sử của Bộ chỉ huy chiến dịch, 42 chiếc khác từ Thái Lan . Các oanh tạc cơ được 113 máy bay chiến thuật yểm trợ như: thả những miếng là kim loại dát mỏng phá rối radar BV, hộ tống, phá huỷ các dàn hoả tiễn địa không …<br /><br />Hệ thống phòng không của BV mặc dù còn hữu hiệu nhưng bị tràn ngập bởi số lượng máy bay lớn cũng như rất khó tìm ra máy bay trong khoảng thời gian ngắn và bị màn dầy đặc của các miếng kim loại dát mỏng do máy bay chiến thuật thả xuống. Trước đây BV đã bắn lên khoảng 950 hoả tiễn, kho nay đã gần cạn, họ chỉ bắn lên được 68 SAM trong chiến dịch này. Một B-52 bị hạ gần Hà Nội, một cái khác bị hư hại nặng quay đầu về U-Tapao bị hủy hoại, chỉ có hai người trong phi hành đoàn sống sót. Tối sau 27-12 , 60 oanh tạc cơ tiến hành chiến dịch, một số tấn công các vị trí hoả tiễn địa không, số còn lại đánh phá đường xe lửa Lạng Ðăng, Ðức Nội, Trùng Quang và Văn Ðiển. Một B-52 bị thương nặng khiến phi hành đoàn nhẩy dù xuống Lào được cứu thoát, một chiếc khác không may khi oanh tạc ga xe lửa Trùng Quang bị trúng đạn. Trong chiến dịch ban đêm hai F-4 và một máy bay trực thăng cấp cứu HH-53 bị bắn rơi.<br /><br />Ngày thứ 10 (28-12) tổng cộng có 60 B-52 trong đó 15 chiếc loại G và 15 loại D từ Anderson, Guam, và 30 chiếc loại D từ U-Tapao, các máy bay tấn công năm mục tiêu làm sáu đợt, trong đó bốn đợt đánh vào các mục tiêu thuộc địa phận Hà Nội (gồm cơ sở cung cấp hoả tiễn địa không), trong khi đó đợt năm đánh ga xe lửa Lạng Ðăng ở Tây Nam Lạng Sơn, một số lớn các tuyến đường vận tải từ Trung Cộng. Không có máy bay nào bị rớt trong chiến dịch này.<br /><br />Ngày thứ 11 (29-12) là trận oanh tạc chót cùng, chỉ còn mộ ít mục tiêu chiến lược còn lại tại BV đáng lưu ý, tuy nhiên còn hai kho hoả tiễn SAM tại Phúc Yên và ga xe lửa Lạng Ðăng có thể oanh tạc được. Tổng cộng 60 chiếc máy bay lại tiến về Bắc nhưng thay đổi việc chọn lựa loại, mẫu. U-Tapao lại cung cấp 30 mẫu D, lực lượng từ Anderson thay đổi, đưa 12 mẫu G và 18 mẫu D trên không phận BV, cuối cùng 30 B-52D làm nhiệm vụ oanh tạc trên vùng cán chảo BV và Nam VN, lần này cũng không có máy bay nào bị phòng không, máy bay MIG của BV hay hoả tiễn bắn hạ<br /><br />Ngày 22-12 Hoa Kỳ kêu gọi Hà Nội trở lại bàn hội nghị đển bàn thảo những khoản đã đề ra từ tháng 10. Ngày 26-12, Hà Nội báo cho Hoa Thịnh Ðốn họ muốn nhấn n mạnh cho Nixon biết oanh tạc không phải là lý do để quyết định , Bộ chính trị BV cho biết ngưng oanh tạc không phải là điều kiện tiên quyết cho cuộc đàm phán. Nixon trả lời ông muốn các cuộc đàm phán về kỹ thuật, thủ tục bắt đầu ngày 2-1-1973 và ông sẽ ngưng oanh tạc nếu BV đồng y. Họ đồng ý và Nixon ngưng chiến dịch dội bom trên vĩ tuyến 20 từ ngày 29-12. Kế đó ông báo cho Kissinger chấp nhận những điều khoản từ tháng 10 để ký Hiệp Ðịnh. Thượng nghị sĩ Henry Jackson (Dân chủ, Washington) khuyên Tổng thống Nixon nói chuyện trên truyền hình cho nhân dân biết chúng ta oanh tạc BV để buộc họ trở lại bàn hội nghị.<br /><br />Ngày 22-12 Hoa Kỳ kêu gọi Hà Nội trở lại bàn hội nghị đển bàn thảo những khoản đã đề ra từ tháng 10. Ngày 26-12, Hà Nội báo cho Hoa Thịnh Ðốn họ muốn nhấn n mạnh cho Nixon biết oanh tạc không phải là lý do để quyết định , Bộ chính trị BV cho biết ngưng oanh tạc không phải là điều kiện tiên quyết cho cuộc đàm phán. Nixon trả lời ông muốn các cuộc đàm phán về kỹ thuật, thủ tục bắt đầu ngày 2-1-1973 và ông sẽ ngưng oanh tạc nếu BV đồng y. Họ đồng ý và Nixon ngưng chiến dịch dội bom trên vĩ tuyến 20 từ ngày 29-12. Kế đó ông báo cho Kissinger chấp nhận những điều khoản từ tháng 10 để ký Hiệp Ðịnh. Thượng nghị sĩ Henry Jackson (Dân chủ, Washington) khuyên Tổng thống Nixon nói chuyện trên truyền hình cho nhân dân biết chúng ta oanh tạc BV để buộc họ trở lại bàn hội nghị.<br /><br />Nay vấn đề trở ngại là sự đồng ý của TT Thiệu, Nixon cố gắng trấn an ông bằng lá thư ngày 5-1-1973 rằng: “ Xin cam kết với ông chúng tôi sẽ tiếp tục yểm trợ trong thời gian sau khi ký kết và sẽ trả đũa hết mình nếu BV vi phạm thoả hiệp” (“You have my assurance of continued assistance in the post-settlement period and that we will respond with full force should the settlement be violated by North Vietnam” - Operation Linebacker II)<br /><br />Tuy nhiên lúc này đang bị Quốc hội chống đối, địa vị Nixon không cho phép ông hứa như vậy, thí dụ nếu đưa yêu cầu này ra Quốc hội ông sẽ chẳng hy vọng gì được chấp thuận. Tuy nhiên ông Thiệu vẫn không chịu, ngày 14-1-1973, TT Nixon phải hăm dọa: “Tôi đã nhất quyết tiến hành ký Hiệp Ðịnh vào ngày 23-1-1973 .. nếu cần tôi sẽ đơn phương ký với họ (I have therefore irrevocably decided to proceed to initial the agreement on January 23, 1973 … I will do so, if necessary, alone). Ngoài ra ông còn hăm doạ cắt hết viện trợ, một ngày trước thời hạn, TT Thiệu đành phải chấp thuận thoả ước, không làm gì hơn được.<br /><br />Ngày 9-1-1973 Kissinger và Lê Ðức Thọ trở lại Paris, thoả thuận giữa Mỹ và BV về cơ bản chính là cái hai bên đã đạt được từ ba tháng trước (tức từ tháng 10-1972). Những yêu cầu do Mỹ thêm vào từ tháng 12-1972 đã bị loại bỏ, nói khác đi bất lợi cho Mỹ. John Negroponte, một trong những phụ tá của Kissinger đã gay gắt nói trong khi hai bên thương lượng như sau: “Chúng ta oanh tạc BV để họ phải chấp nhận sự nhượng bộ của chúng ta” (We bombed the North Vietnamese into accepting our concessions – Operation Linebacker II)<br /><br />Khu phi quân sự do Hiệp định Genève ấn định từ 1954 không được coi là biên giới giữa hai nước. Việc yêu cầu quân đội BV rút khỏi miền Nam VN về Bắc không thấy ghi một tí nào trong Hiệp định, tuy nhiên Lê Ðức Thọ có hứa miệng với Kissinger sẽ rút 30,000 quân CS về Bắc.<br /><br />Yêu cầu ngưng bắn cho toàn cõi Ðông dương không được ghi trong Hiệp Ðịnh, một lần nữa Kissinger lại hài lòng với lời “thoả thuận miệng” (verbal understanding) rằng ngưng bắn tại Lào sẽ được thực hiện cùng lúc hoặc sau VNCH một chút. Thỏa thuận về Cam bốt không được đặt ra vì tại nơi đây BV không có tí ảnh hưởng nào đối với Khmer đỏ.<br /><br />Hiệp Ðịnh Paris được ký tại khách sạn Majestic tại Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973.<br /><br />Trong chiến dịch Linebacker II tổng cộng có 741 phi xuất B-52 để oanh tạc Hà Nội và 729 phi vụ đã thực hiện xong. Có 15,237 tấn bom đạn đã được ném xuống 18 mục tiêu về kỹ nghệ và 14 mục tiêu quân sự kể cả tám căn cứ hoả tiễn địa không (SAM), trong khi đó các máy bay chiến thuật cũng đã ném xuống 5,000 tấn bom đạn. Cùng thời gian này có 212 phi vụ B-52 được thêm vào tại Nam VN để yểm trợ cho các chiến dịch dưới đất, 10 B-52 đã bị bắn rớt ngoài Bắc và năm chiếc khác bị thương rớt ở Lào hoặc Thái lan, 33 quân nhân thuộc các phi hành đoàn B-52 đã bị thiệt mạng hoặc mất tích trong khi thi hành nhiệm vụ, 33 người khác bị bắt làm tù binh và 26 ngươi khác đã được cứu vớt. Bắc Việt cho biết họ đã bắn hạ 34 chiếc B-52, 4 chiếc F-111 trong suốt chiến dịch.<br /><br />769 phi vụ phụ thêm do Không Lực và 505 phi vụ do Hải Quân và Thủy quân lục chiến để yểm trợ cho các pháo đài bay B-52 , có 12 máy bay bị thiệt hại trong chiến dịch gồm : Hai F-111, ba F-4, hai A-7, hai A-6, một EB-66, một trực thăng cấp cứu HH-53, một thám thính RA-5C, trong chiến dịch này mười phi công bị thiệt mạng, tám bị bắt, mười một được cứu thoát.<br /><br />Toàn thể thiệt hại của chiến dịch là 27 chiếc gồm 15 B-52 và 12 máy bay chiến thuật: Không quân mất 15 B-52, hai F-4, hai F-111, một EB-66 và một trực thăng cứu nạn HH-53. Hải quân mất hai A-7, hai A-6, một RA-5, và một F-4. Trong số tất cả máy bay bị bắn rơi có mười bẩy chiếc bị bắn rớt vì hoả tiễn SA-2, ba chiếc bị máy bay MIG của BV bắn rơi ban ngày, ba chiếc do đại bác phòng không, bốn chiếc không rõ nguyên do. Tổng cộng có tám máy bay MIG bị bắn rớt trong đó hai chiếc do đại liên phòng không ở đuôi B-52 hạ.<br /><br />Thiệt hại về vật chất hạ tầng cơ sở của BV rất nặng nề: Không quân ước lượng 500 đường xe lửa bị đình chỉ hoạt động, 372 toa xe lửa và ba triệu gallons săng dầu bị phá hủy, 80% điện năng của BV bị phá hủy. Nhập lượng tiếp liệu vào BV được tình báo Mỹ đánh giá là 160,000 tấn hàng tháng khi mới tiến hành chiến dịch. Ðến tháng 1-1973, nhập lượng này đã tụt xuống còn 30,000 tấn, vào khoảng năm lần. Mặc dầu Hà Nội la làng “Mỹ đã trải thảm bom lên nhà thương, trường học, các khu dân cư, phạm vào những tội ác man rợ đối với nhân dân ta”, nhưng chính họ đã cho biết chỉ có 1,624 ngườøi thường dân bị thiệt mạng.<br /><br />Với khoảng 20,000 tấn bom được thả xuống Hà Nội, Hải Phòng, sự thiệt hại dân sự tương đối nhẹ, chỉ có 1,318 người tại Hà Nội và 306 người tại Hải Phòng thiệt mạng, nếu so sánh với chín ngày oanh tạc thành phố Hamburg, nước Ðức năm 1944 , chỉ có vào khoảng chưa tới 10,000 tấn bom được ném xuống mà có tới 30,000 người bị giết.<br /><br />Nhiều giới chức trong Không quân (theo Linebacker II bombing Raid) cho rằng nếu năm 1965 mà cũng đánh cho BV te tua như Giáng Sinh năm 1972 thì đã thắng rồi, họ sai lầm ở chỗ năm 1972 chiến tranh đến thời kỳ kết thúc và trận oanh tạc này chỉ là cú đấm cuối cùng. Ngoài ra bang giao cũa Mỹ với Nga, Trung Cộng đã thay đổi nhiều trong những năm có hoà đàm với BV, oanh tạc mạnh năm 1965 có thể lôi kéo CS quốc tế vào cuộc chiến và cũng có thể leo thang đi tới chiến tranh nguyên tử, nay kỳ hạn hoà bình đã thay đổi và Hoa Kỳ không còn muốn chiến thắng nữa, họ chuyễn sang rút bỏ.<br /><br />Như vậy trận mưa bom Giáng sinh long trời lở đất năm 1972 có mục đích chính là để đưa BV trở lại bàn hội nghị. Sau ngày 30-4-1975 nhiều người ở miền Bắc vào Nam cho biết nếu Mỹ ném bom thêm một tuần nữa thì BV sẽ phải đầu hàng vì chịu không nổi. Gần đây có nguồn tin một cựu nhân viên FBI tên Ted Gunderson tiết lộ rằng một sĩ quan lãnh sự Mỹ lãnh sự tại VN đã nghe vào đầu xuân năm 1973 từ phòng truyền tin tại Sài Gòn lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện của Bắc Việt trong trận oanh tạc của Mỹ đầu xuân 1973 (tức trận oanh tạc Giáng sinh 1972), thế nhưng CIA đã thay thế toàn bộ nhân viên của phòng truyền tin và ém nhẹm đi tin này để cho sự điều đình giữa Tổng thống Nixon và Mao được xúc tiến và dâng miền Nam cho CS qua Hoà đàm Paris.<br /><br />Tin đồn do những người ngoài Bắc đem vào Nam và tin của Ted Gunderson hoàn toàn sai lạc vô căn cứ, trước hết TT Nixon cho oanh tạc BV là để đưa họ trở lại bàn hội nghị như đã nói ở trên, họ chỉ muốn ký hiệp định rồi rút quân về nước sống chết mặc bay (The terms of peace had also changed as the United States went from wanting victory to settling for an easy exit – Linebacker II bombing raid).<br /><br />Ông Nguyễn kỳ Phong đã nhận xét.<br /><br />“Nhưng ý định của Hoa Kỳ trong cuộc dội bom phủ đầu năm 1972 không còn ý nghĩa quân sự nữa mà cuộc dội bom chỉ là một thái độ chính trị: Hoa Kỳ chỉ muốn CSVN trở lại hội nghị, kết thúc cuộc chiến trên giấy tờ, để Hoa Kỳ có thể rút khỏi Việt Nam – dù hiệp ước đó có bất lợi cho Hoa Kỳ và VNCH đến đâu. Và Hoa Kỳ đã đạt được ý định sau 11 ngày dội bom”.Vũng Lầy Của Bạch Ốc , trang 300.<br /><br />Ngoài ra đối với BV, Mỹ không có tư cách để buộc họ phải đầu hàng như đã buộc Nhật đầu hàng năm 1945. Ðối với VN, Mỹ tham chiến chỉ là để trợ giúp VNCH tự vệ chống CS, giữ toàn vẹn lãnh thổ miền Nam chứ không phải để chiếm miền Bắc. Chúng ta cũng cần lưu ý mặc dù bị các pháo đài bay B-52 cho ăn đòn nhừ tử thừa sống thiếu chết, các hạ tầng cơ sở BV bị đánh phá tan tành xú oách gần như sập tiệm thế mà họ vẫn đòi được Mỹ phải nhượng bộ tại bàn hội nghị như đã nói ở trên .Hiệp định ký kết vẫn chỉ là những thoả thuận cũ từ tháng 10-1972. BV lỳ lợm như thế thì thử hỏi đến bao giờ họ mới chịu hàng, cho dù cuộc oanh tạc có tiêu diệt hàng trăm nghìn người thường dân vô tội hoặc hơn thế họ cũng chẳng quan tâm, trong thời gian chiến tranh Lê Duẫn đã từng nói sắn sàng nướng thêm một hai triệu người nữa để tiếp tục chiến đấu.<br /><br />Năm 1989 tác giả bài viết này có dịp nói chuyện với một trung tá CSBV đã giải ngũ về cuộc oanh tạc Giáng sinh 1972, ông ta nói: Bây giờ hết coi là bí mật thì tôi mới dám nói, ngay hôm máy bay Mỹ ném bom dữ dội, các đường dây diện thoại bị đứt hết, trung ương mất liên lạc với địa phương, sau mười ngày oanh tạc, hai bên cùng đuối và rồi Mỹ phải ngưng cuộc tấn công. Trong phim VietNam a Television History (Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình) do các ký giả, sử gia Mỹ, Anh, Pháp thực hiện đã được chiếu ở VN giữa thập niên 80, về đoạn nói về Mỹ ngưng ném bom như sau: Cuối tháng 12-1972 Hoa Kỳ ngưng ném bom BV, không phải vì bị thế giới lên án, cũng không phải vì người dân Mỹ biểu tình chống đối mà vì sự thiệt hại nặng của không quân trong chiến dịch này.<br />Cả ý kiến của cựu trung tá CS và nhận định của cuốn phim trên đều không đúng sự thật, sự thiệt hại 15 máy bay B-52 và 12 máy bay chiến thuật không có gì là lớn lao so với thiệt hại về hạ tầng cơ sở của BV. Như đã nói ở trên phòng không của BV cuối tháng 12 đã “hết xú oách” rồi, họ đã kiệt quệ về hoả tiễn địa không nên phải xin chịu ngồi vào bàn hội nghị, họ thấy “Chiến thuật Lì” không còn hiệu lực nên đành phải trở lại Hoà đàm. Vả lại Mỹ ngưng oanh tạc cũng vì các mục tiêu để đánh phá cũng không còn, hạ tầng cơ sở BV đã bị oanh tạc tanh bành té bẹ, không còn gì để triệt hạ nữa.(The final two days of Linebacker II encountered only one problem: a lack of suitable targets – Linebacker II bombing raid).<br /><br />Có giả thuyết cho rằng nếu Nixon còn làm Tổng thống thì miền Nam chưa chắc đã bị mất về tay CS, giả thuyết này dựa trên tinh thần yểm trợ nhiệt tình của TT Nixon cho VNCH trước ngày ký hiệp định Paris. Sự thực cho dù Nixon còn làm Tổng thống thì VNCH cũng chỉ có một chút hy vọng mong manh, chưa chắc ông đã làm gì hơn được vì như đã nói ở trên khi TT Nixon hứa với ông Thiệu sẽ thẳng tay trả đũa BV nếu họ vi phạm Hiệp định, ông chỉ hứa miệng qua một bức thư riêng mà không dám hứa công khai vì sợ Quốc Hội chống đối, họ sẽ không cho phép ông hứa như vậy, người ta đã quá chán cuộc chiến tranh Ðông Dương. Ngay cả thời gian chưa ký Hiệp định mà tình hình còn bi đát như thế huống hồ hai năm sau. Vả lại chính Nixon cũng không còn tinh thần để tiếp tục cuộc chiến với một kẻ thù lì lợm.<br /><br />Theo ông Nguyễn Kỳ Phong ngày 1- 5-1972 Quảng trị thất thủ vào tay BV, hôm sau Lê Ðức Thọ và Kissinger gặp nhau ở Paris tiếp tục đàm phán , khi ấy ba sư đoàn BV đang tiến về Huế, tại Kontum, Bình Long quân đội VNCH bị bao vây nguy khốn, Lê Ðức Thọ tỏ ra đắc thắng vì họ đang có ưu thế ở chiến trường.<br /><br />“Nhưng hơn một tháng sau, tình thế mặt trận chuyển hướng theo sự cuồng nộ của Nixon “Nam Việt Nam có thể thua, nhưng Hoa Kỳ không thể thua, nghĩa là, dù chuyện gì xảy ra ở Việt Nam, chúng ta sẽ hủy diệt bắc Việt Nam”. Nixon tuyên bố với những phụ tá thân cận”. Vũng Lầy Của Bạch Ốc, trang 504.<br /><br />Như thế nếu đại quân của CSBV chiếm được miền Nam bằng vũ lực trong trận Mùa hè đỏ lửa 1972 thì Nixon sẽ oanh tạc san bằng hủy diệt BV, thể hiện thái độ “không được ăn thì đạp đổ”, với tình hình năm 1972 ông có thể làm như vậy, nhưng gió đã soay chiều, những năm sau 1973, 1974, 1975 ông không thể làm gì hơn vì Quốc hội đã thực sự trói tay hành pháp.<br /><br />Nửa năm sau ngày ký Hiệp định Paris, tháng 6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự Mỹ tại Ðông Dương , ngày 1-7 -1973, TT Nixon miễn cưỡng phải ký thành đạo luật áp dụng từ giữa tháng 8-1973 cấm mọi hoạt động quân sự Mỹ trên toàn cõi Ðông Dương. Tháng 10-1973 Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền Tổng thống về chiến tranh (War Power Act), Tổng thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến. Như thế đối với tình hình Ðông Dương lúc ấy hành pháp Hoa Kỳ đã bị trói tay gần như hoàn toàn, không cựa quậy vào đâu được.<br /><br />Trên thực tế Nixon cũng quá chán nản để có thể tiếp tục trừng phạt BV bằng oanh tạc trả đũa. Từ đầu thập niên 70, phong trào phản chiến đã tạo sức mạnh của họ bằng lá phiếu và đã thành công, Quốc Hội nằm trong tay phản chiến, trong tay đảng Dân chủ sẵn sàng thực hiện nguyện vọng của họ để cắt quân vịên bỏ Ðông Dương. Vả lại chúng ta cũng không nên quên một yếu tố quan trọng là thuyết Domino đã lỗi thời khi bước sang thập niên 70, vào những năm 1965, 66, 67 còn có thể coi là có giá trị. Vị trí Ðông Dương nay không còn quan trọng đối với Mỹ.<br /><br />Hoa Kỳ ký Hiệp Ðịnh Paris ngày 27-1-1973, rút quân và đem về nước 587 tù binh, ông Nguyễn Ðức Phương đã nhận xét:<br /><br />“Người Mỹ ký hiệp định Ba Lê với mục đích rút ra khỏi vũng lầy VN đồng thời trao đổi tù binh Mỹ. Quyền lợi chính của miền Nam không được chú trọng đến. Một chuyên viên về du kích chiến, Sir R. Thompson, khi thảo luận về việc ký kết hiệp định Ba Lê đã viết “ Sự sống còn của miền Nam VN bị đe doạ chỉ vì để tránh cho nước Mỹ khỏi phải cấu xé nhau tan nát. Một điều trái ngược ở đây là miền Bắc VN bị bắt buộc phải ngồi vào bàn hội nghị tại Ba Lê không phải để tự cứu họ mà là để cứu nước Mỹ”. Vì lý do vừa kể nên mặc dù có quá nhiều khuyết điểm, hiệp định Ba Lê vẫn phải được phê chuẩn với bất cứ giá nào”. Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 811.<br /><br />Người mình thường kết án Kissinger hoặc chỉ trích TT Nixon ký Hiệp Ðịnh Paris bán đứng VNCH cho CS, họ lý luận Hiệp định là một bản án tử hình. Sự thực không phải như vậy, việc Nixon phải nỗ lực để ký thoả ước đem quân về nước là chuyện ắt phải làm ở cương vị ông, không thể làm gì hơn được vì như chúng ta đã biết, phong trào phản chiến và Quốc Hội đã luôn gây sức ép dữ dội đối với hành pháp buộc phải rút quân về nước bằng mọi giá. Không phải hành pháp Hoa Kỳ, tổng thống Nixon hay Kissinger bỏ VN mà Quốc Hội đã cắt giảm quân viện đến xương tuỷ khiến VNCH không còn đủ hoả lực để tự vệ, theo GS Nguyễn Tiến Hưng<br /><br />“- Sau khi Mỹ rút, viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hoà:<br />- Tài khoá 1973: hai tỷ mốt (2,1 tỷ)<br />- Tài khoá 1974 : một tỷ tư (1,4 tỷ)<br />- Tài khoá 1975 : bẩy trăm triệu (0,7 tỷ).”<br />(Khi Ðồng Minh Tháo Chạy, trang 223)<br /><br />Tháng 2-1974 đạn tồn kho chỉ còn đủ xài cho một tháng, tháng 4 năm 1975 đạn chỉ còn đủ đánh hai tuần (Cao Văn Viên, Những Ngày Cuối VNCH trang 92)<br /><br />Nay chính người Mỹ cũng phải công nhận Quốc Hội Hoa Kỳ đã bức tử miền nam VN, cắt viện trợ đạn dược , tiếp liệu trong khi BV vẫn được CS quốc tế viện trợ dồi dào<br /><br />(The United Stated did not lose the war in Viet Nam, the South Viet Namese did after the U.S Congress cut off funding. The South Vietnamese ran out of fuel, ammunition and other supplies because of a lack of support from Congress while the North Vietnamese were very well supplied by China and the Soviet union -History.com, Statistics about the Vietnam war).<br /><br />Sự thực không phải Hiệp định Paris hay Nion, Kissinger đã bức tử miền Nam VN. Mặc dù BV không rút hết quân về Bắc nhưng nếu Quốc hội tiếp tục viện trợ quân sự cho VNCH trong các tài khoá 1973-74 và 1974-75 bằng hoặc hơn mức viện tài khoá 1972-73 (tức 2 tỷ 100 triệu) thì VNCH vẫn đủ sức tự vệ chống lại BV mặc dù các nước đồng minh đã rút đi. Nay vấn đề đã quá rõ ràng, lập pháp đã bức tử VNCH chứ không phải hành pháp.<br /><br />Trong trận oanh tạc khủng khiếp long trời lở đất mùa Giáng Sinh năm 1972, Nixon đã một công đôi chuyện, vừa bắt BV trở lại bàn hội nghị và vừa đánh phá tan tành xú oách các hạ tầng cơ sở miền Bắc như đã nói ở trên: phi trường, nhà ga, kho hàng , tiếp liệu bị hủy hoại. Nixon đã đánh cho BV sập tiệm để sau khi Mỹ rút đi họ sẽ không có khả năng xâm lược miền Nam, như thế ông ta cũng đã làm hết sức mình để cứu vãn sự sụp đổ củaVNCH.<br /><br />Theo ông Nguyễn Kỳ Phong tháng 6-1973 dưới áp lực của Quốc Hội Nixon phải chấp thuận luật không cho phép chính phủ xử dụng bất cứ ngân khoản nào cho các hoạt động quân sự tại Ðông Dương. Tháng 10-1973 Quốc hội biểu quyết chấp thuận luật mới giới hạn quyền Tổng thống trong chiến tranh (The War Power Act). Nixon lập tức dùng quyền tổng thống phủ quyết, nhưng một tháng sau Quốc hội biểu quyết lại với đa số phiếu và hiệu lực hoá bộ luật theo Hiến pháp.<br /><br />“Không còn ngân khoản để yểm trợ trực tiếp hay gián tiếp cho Việt Nam, không còn quyền hạn để tuyên chiến lâu dài trong trường hợp phải đối phó với sự gây hấn của CSBV, giá trị của bản hiệp định đình chiến và giá trị của những hứa hẹn cá nhân của Nixon đối với VNCH bây giờ hoàn toàn nằm trong tay người khác : Trong tay của CSBV và Quốc hội Hoa Kỳ”. Vũng Lầy Của Bạch Ốc, trang 518<br /><br />Tổng thống Nixon đã hết lòng với sự tồn tại của Ðông Dương chứ không phải ông ta phản bội và bức tử đồng minh như nhiều người nghĩ.<br /><br />Trong trận oanh tạc Giáng Sinh 1972 kể trên BV đã đủ sức chống trả và gây thiệt hại đáng kể cho không lực của một siêu cường thì ta mới thấy CS quốc tế đã viện trợ cho BV dồi dào như thế nào, có người cho rằng Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hôi chủ nghĩa anh em đã viện trợ quân sự cho BV để đánh nhau với Mỹ chứ không phải để đánh nhau với VNCH.<br /><br />Theo bản tin BBCvietmamese.com ngày 10-5-2006: Trong buổi hội thảo của Viện Lịch Sử Quân Sự CSVN tổ chức tại Sài Gòn ngày 14 và 15-4-2006, hai “đồng chí” Lê Quang Lạng và Trần Tiến Hoạt đã công bố nguồn viện trợ quân sự của các nước XHCN anh em cho CSVN trong cuộc chiến tranh 1964-1975. Họ cho biết về Tên Lửa Liên xô đã viện trợ 10,169 quả, về máy bay chiến đấu Liên Xô viện trợ 316 chiếc, Trung Quốc anh em 142 chiếc. Trong giai đoạn 1969-72, BV đã nhận được 684,666 tấn hàng viện trợ vũ khí và trang bị kỹ thuật, giai đoạn 1973-1975 BV nhận được 649,246 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật như thế CS quốc tế vẫn viện trợ cho BV dồi dào từ đầu tới cuối cuộc chiến.<br /><br />Mặc dù bị Nixon cho ném bom đánh phá tan nát hạ tầng cơ sở tại miền bắc, nhưng CS quốc tế đã yểm trợ tái thiết cho BV nhanh chóng. Sau khi ký Hiệp Ðịnh Paris, Hà Nội cho khởi công xây tuyến đường xa lộ Ðông Trường Sơn hay Hành làng 613 song song với đường mòn Hồ chí Minh nhưng nằm trong lãnh thổ VNCH, BV đã xử dụng hằng nghìn xe máy ủi, hàng vạn bộ đội, dân công, thanh niên xung phong…ngày đêm, phá núi san đèo , xây cống, làm đường, dựng cầu…. Tới 1975 thì hoàn tất công trình, tuyến đường rộng 8 m, dài 1200 km, đường dẫn dầu từ Quảng Trị tới Lộc Ninh, chiều dài toàn bộ 5 hệ thống trục dài 5,500 km, 21 trục ngang 1,020 km, hệ thống dẫn dầu dài 5,000km. Nhờ hệ thống xa lộ Ðông Trường Sơn mà BV đã vận chuyển vào Nam một khối lượng rất lớn súng đạn.<br /><br />Khi thấy Mỹ quẳng miếng xương Ðông Dương đi sau khi ký Hiệp định Paris vào đầu năm 1973, CS quốc tế cũng như Hà Nội vội nhanh tay ra chụp lấy.<br /><br />Người Mỹ thực sự nhập cuộc và leo thang chiến tranh VN từ 1965 cho tới 1972, có thể chia làm hai giai đoạn 1965-1968 thời Johnson – McNamara và 1969-1972 thời Nixon – Kissinger.<br /><br />Chính phủ Johnson được nhiều thuận lợi, mặc dù có biểu tình phản chiến nhưng số người ủng hộ chính phủ ở tỷ lệ tương đối cao 60%, 50% vào những năm 1965, 66. Qua năm 1967 số người ủng hộ chính phủ giảm còn 45%, 46%...trong khi số phản chiến tăng lên 50, 51%... Năm 1968 sau trận Tổng công kích Tết Mậu Thân tỷ lệ người ủng hộ giảm dần xuống còn 38%, tỷ lệ phản chiến vượt lên trên 50%. TT Johnson được Quốc hội ủng hộ cho tăng quân đều đều hàng năm từ 184,300 người năm 1965 lên 385,000 năm 1966, lên 485,600 năm 1967 và 536,100 năm 1968.<br /><br />Mặc dù được nhiều may mắn Thiên thời, địa lợi, nhân hoà nhưng Johnson đã không thắng được CS, chẳng làm lên cơm cháo gì trong suốt bốn năm 1965-1968, ông đã khiến cho số lính Mỹ tử thương ngày một nhiều : 1,863 người năm 1965; 6,143 người năm 1966; 11,153 người năm 1967 và 16,592 ngưới năm 1968. Sai lầm lớn lao nhất của TT Johnson là đã giao toàn bộ kế hoạch quân sự cho McNamara, một người dân sự không có tí kinh nghiệm nào về quân sự, bị các tướng lãnh, giới chức quân sự coi thường. McNamara bất tài, thiếu tư cách, nắm toàn quyền chiến thuật, chiến lược đã là nguyên nhân chính cho sự sụp đổ Ðông Dương sau này. Chính sách đánh cầm chừng “vừa đánh vừa run” của cặp Johnson – McNamara đã đẩy phong trào phản chiến lên cao thượng đỉnh đưa cuộc chiến Ðông Dương dần dần tới chỗ sụp đổ tan tành.<br /><br />TT Nixon thừa hưởng một gia tài đổ nát của Johnson – McNamara, chính phủ trước đã để lại cho ông một căn nhà dột nát, ông phải chống chọi, che đỡ ba bề bốn bên , mặc dù được coi là vị Tổng thống đã có một sự nghiệp chính trị ngoại hạng nhưng ông cũng không tài nào cứu vãn nổi tình thế. Khi Nixon lên nhậm chức thì phong trào phản chiến do cặp Johnson – McNamara để lại đã lên quá cao, từng bước một phong trào từ từ nắm vững quốc hội trong tay bằng lá phiếu, và rồi gió đã đổi chiều….<br /><br />Nixon từ chức ngày 8-8-1974 vì vụ Watergate, ông đã đem theo tất cả những lời hứa hẹn với người bạn đồng minh xuống dưới tuyền đài.<br /><br />Viết trong mùa Giáng Sinh năm 2009<br /><br /><strong>Trọng Ðạt<br /></strong><br /><em><strong>Tài Liệu Tham Khảo</strong><br /><br />Wikipedia: Operation Linebacker II<br />The Hauenstein Center for Presidential: Nixon and the Christmas bombing.<br />AirSpacemag.com, Military Aviation:The Christmas bombing .<br />Commondreams.org: The Christmas bombings, by James Carrell.<br />Namvets.com:Vietnamese remember Christmas from hell.<br />U.S Centenial of flight commission: Linebacker II bombing raid.<br />History.com, History made every day: Nixon announces start of Christmas bombing of North Vietnam.<br />History.com: Statistic about the Vietnam war.<br />Digital History: Nixon and Viet Nam.<br />Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003.<br />Nguyễn Kỳ Phong:Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006.<br />Nguyễn Kỳ Phong : Tử điển chiến tranh Việt Nam, TựÏ Lực 2009<br />Nguyễn Ðức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.<br />Nguyễn Ðức Phương: Những Trận Ðánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Ðại Nam<br />Nguyễn Tiến Hưng: Khi Ðồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh, 2005.<br />Viện trợ quốc tế cho miền Bắc trong chiến tranh: BBCvietnamese.com, 10-5-2006<br />Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.<br />Google: Research at the National Archives, Statistical information about casualties of the Vietnam war.<br />The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman - General Editor, A Bison-book 1985.<br />Stanley Karnow: Vietnam, A History, A Penguin Books 1991.<br />Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Vietnam War, A history in documents, Oxford University Press 2002.<br />Thomas W. Lippman: McNamara, Architect of Vietnam War, Dies at 93, Washington Post, July 6-2009.<br />Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing<br />Cộng Hoà Thua Trận Vì Bị Mỹ Cằt Viện Trơ..Motgoctroi.com<br />Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.<br />Văn Tiến Dũng: Ðại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005.<br />Dương Ðình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.<br /></em><br /></p>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-5582596292570799672010-01-30T18:13:00.003+11:002010-01-30T18:22:36.001+11:00HOÀNG SA NHUỘM MÁU - Lê Thương<center><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIJZN63DranZhxI3Mb9I7Q-Un6B5Z6of70AVclrRwIThgbHsNK5TKgBoAdGz0L2_zkR5beEfeaprLhdoPAzqnXfOhZYNi69KLkt7dr3ArbSU2o4cdIMv8JQOk8zKrG1VEy_LjjjtmDmzo/s1600-h/CT_1706_HS-3.gif"><img style="WIDTH: 444px; HEIGHT: 497px; CURSOR: hand" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432427837433902114" border="0" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIJZN63DranZhxI3Mb9I7Q-Un6B5Z6of70AVclrRwIThgbHsNK5TKgBoAdGz0L2_zkR5beEfeaprLhdoPAzqnXfOhZYNi69KLkt7dr3ArbSU2o4cdIMv8JQOk8zKrG1VEy_LjjjtmDmzo/s400/CT_1706_HS-3.gif" /></a></center><p align="justify"><br /><strong><em><span style="font-size:85%;">Lê Thương</span></em></strong><br /><br />Trận hải chiến đẫm máu ở Hoàng Sa-Trường Sa giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải Quân Trung Cộng bắt nguồn từ ngày 11-1-1974 khi Trung Cộng lên tiếng tuyên bố các quần đảo nầy thuộc lãnh thổ của họ, đồng thời họ gởi nhiều tàu chiến ngụy trang tàu đánh cá đổ quân lên các đảo lân cận.<br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi46gItALRkgjPsfaH1fshWtU3aeUkn3YOIDKSxuMh7i8Ipx9-xr5ETfqZ7V74SMM5hZPH45E1EYEzjWq9FK-CMYlwvr9dyoXZ6YSqikLiI7yhUwaNlr14tSJojRpQZkddI9hFBvQ2AaQ8/s1600-h/CT_1706_HS.gif"><img style="WIDTH: 324px; HEIGHT: 247px; CURSOR: hand" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432427851868159938" border="0" hspace="5" alt="" align="left" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi46gItALRkgjPsfaH1fshWtU3aeUkn3YOIDKSxuMh7i8Ipx9-xr5ETfqZ7V74SMM5hZPH45E1EYEzjWq9FK-CMYlwvr9dyoXZ6YSqikLiI7yhUwaNlr14tSJojRpQZkddI9hFBvQ2AaQ8/s400/CT_1706_HS.gif" /></a>Ngày hôm sau, 12-1-1974, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa Vương Văn Bắc cực lực bác bỏ những luận điệu ngang ngược, vô căn cứ nầy và mạnh mẽ lên án trước dư luận thế giới về ý đồ xâm lăng của Trung Cộng. Để bảo tồn sự vẹn toàn lãnh thổ, ngày 15-1-1974, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam phái Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ16 ra tăng cường tuần tiễu và bảo vệ các quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam ta. Ngày xưa, vị anh hùng Lý Thường Kiệt mang gươm đi đánh Tống, ngày nay con tàu mang tên ông cũng đang lướt sóng trực chỉ Biển Đông, sẵn sàng chống giữ Hoàng Sa.<br /><br />Hạm trưởng HQ16 là Hải Quân Trung tá Lê Văn Thự, xuất thân từ Khóa 10 Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, chiến hạm có chở theo phái đoàn Công Binh gồm Thiếu tá Hồng, 2 sĩ quan cấp úy và 2 trung sĩ Công Binh để khảo sát địa thế cho kế hoạch thiết lập một phi trường trên đảo nầy, ngoài ra còn có ông Gerald Emil Kosh thuộc cơ quan DAO của Hoa Kỳ ở Đa Nẵng đi theo cho biết đảo. Chiến hạm đến Hoàng Sa vào lúc chiều tối ngày 15-1-1974. đêm đó con tàu bỏ neo trong vùng chờ trời sáng sẽ đưa phái đoàn vào đảo.<br /><br />Đêm không trăng, bầu trời cao thăm thẳm lấp lánh những vì sao, tiếng sóng vỗ rì rào quanh mạn con tàu. Thật là đêm bình yên thơ mộng giữa trùng dương mênh mông đối với những chàng lính biển. Quân chủng Hải Quân như một người cha, luôn luôn mở rộng vòng tay âu yếm đón nhận những chàng trai trẻ mang mộng hải hồ vào đại gia đình “áo trắng”. Có biết bao nhiêu thiếu nữ yêu kiều đã gởi con tim mình cho những người lính áo trắng mà “mỗi bến nước là một bến tình” cho nên bị dân gian “mắng yêu” bằng hai câu ca dao dễ thương: </p><ul><p align="justify"><i><span style="color:#000066;">Đường nào dài bằng đường Trần Hưng Đạo,<br />Lính nào xạo cho bằng lính Hải Quân.</span></i></p></ul><p align="justify">Buổi sáng ngày 16-1-1974, HQ16 cho xuồng đổ bộ phái đoàn Công Binh lên đảo Pattern, công tác hoàn tất tốt đẹp. Đến trưa, vị sĩ quan trực Quart 1200-1500H là Hải Quân Trung úy Đào Dân bỗng phát hiện một con tàu lạ trước mặt đảo Cam Tuyền (đảo Robert), chiếc tàu nhỏ, cỡ tàu đánh cá. Chiến hạm đánh đèn yêu cầu tàu lạ cho biết xuất xứ, đúng theo qui luật hàng hải quốc tế nhưng tàu lạ vẫn im lặng. Để gợi sự chú ý và cũng để đuổi tàu lạ ra khỏi lãnh hải, chiến hạm cho bắn chỉ thiên một tràng đại liên 30. Tiếng súng nổ dòn dã giữa buổi trưa yên tĩnh trên mặt biển nhưng đối tượng vẫn lì lợm, không nhúc nhích. Khi tàu ta đến gần hơn thì mọi người đều chưng hửng vì tàu lạ là tàu Trung Cộng, mang cờ nền đỏ với các ngôi sao vàng ở ngay góc. Sự xuất hiện của chiến hạm Việt Nam cũng làm khuấy động sự sinh hoạt trên tàu Trung Cộng, hàng chục binh sĩ của họ lên boong nhìn sang tàu ta bằng những đôi mắt soi mói, kỳ lạ lẫn ngạc nhiên.<br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgl4WoRp9qH7fSU6mU31IHUiRyOGuDK6j9JFewPl4ln8euK14c8cjG8exinRh06gcFVOlvDYvy8B8LFhzJIrUVD5dtrgfv9P6QpQZZ6DyDVEuNmGy0yvdmp_5DCG10jOnKW_ClyTymzatQ/s1600-h/CT_1706_HS-1.gif"><img style="WIDTH: 288px; HEIGHT: 229px; CURSOR: hand" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432427848003515922" border="0" hspace="5" alt="" align="right" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgl4WoRp9qH7fSU6mU31IHUiRyOGuDK6j9JFewPl4ln8euK14c8cjG8exinRh06gcFVOlvDYvy8B8LFhzJIrUVD5dtrgfv9P6QpQZZ6DyDVEuNmGy0yvdmp_5DCG10jOnKW_ClyTymzatQ/s400/CT_1706_HS-1.gif" /></a>Hạm trưởng HQ16 khẩn báo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân để xin chỉ thị, đồng thời cho nhân viên dùng đèn, dùng cờ, dùng máy phóng thanh yêu cầu tàu Trung Cộng rời khỏi hải phận Việt Nam. Lúc đầu cuộc đối thoại như với người câm nhưng sau đó họ cũng dùng loa phóng thanh cầm tay yêu cầu ta ra khỏi lãnh hải Trung Quốc. Hai bên tiếp tục đấu võ mồm suốt cả buổi chiều ngày 16-1-1974 mà không bên nào nhượng bộ. Đêm đến, HQ16 phải lui ra xa để giữ an toàn cho chiến hạm. Buổi sáng ngày 17-1-1974, ta lại phát hiện thêm một tàu địch cạnh đảo Vĩnh Lạc (đảo Money) và hàng trăm lá cờ Trung Cộng được cắm dọc bờ biển. Chỉ có đảo Cam Tuyền mà HQ16 đang ở gần là còn trinh bạch, chưa bị hoen ố bởi cái rừng cờ màu máu đó.<br /><br />Ngay khi nhận được báo cáo của HQ16 phát hiện tàu Trung Cộng xâm phạm hải phận Việt Nam, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải chỉ thị cho Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ4 ra Hoàng Sa tăng cường. Khu truc hạm Trần Khánh Dư, chiến hạm mang tên danh tướng đã oanh liệt chiến thắng trận Vân Đồn, mở đầu cho trận đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng của quân dân ta dưới thời nhà Trần ra đến Hoàng Sa khoảng 2:00 giờ chiều ngày 17-1-1974, chở theo một trung đội Người Nhái (Navy Seal).<br /><br />Hạm trưởng HQ4 là Hải Quân Trung tá Vũ Hữu San, Khóa 11, khi nhập vùng đã hợp với HQ16 có những hành động tức thời để uy hiếp lực lượng Trung Cộng. Chiếc HQ16 vận chuyển từ phìa Bắc Hoàng Sa xuống trong khi HQ4 từ phía Nam đảo Vĩnh Lạc tiến lên, tạo thế gọng kìm, kẹp chặt 2 tàu địch vào giữa. Thấy lực lượng Hải Quân Việt Nam được tăng cường, địch di chuyển ra khỏi đảo Cam Tuyền nhưng vẫn bám vùng. Tàu ta tiếp tục tiến đến gần hơn, sát tàu địch. Hai phe lại dùng loa phóng thanh trao đổi yêu sách, bên nầy đòi bên kia rời khỏi lãnh hải của mình. Địch không rời mà còn lải nhải mãi khiến Trung tá Vũ Hữu San tức giận, mặt ông đỏ gay, ông vung nắm tay về hướng tàu địch lúc đó đang ở rất gần, quát lớn “bọn bố láo”, đoạn ông ra lệnh cho HQ4 dùng mũi húc vào chiếc tàu địch nầy để đẩy nó ra. HQ4 to lớn, gồ ghề, 3 tầng kiến trúc với đài chỉ huy cao nghều nghệu trong khi tàu Trung Cộng nhỏ hơn, thấp hơn nên bị tàu ta húc bể một lỗ lớn ở đài chỉ huy. Trước hành động quyết liệt nầy, 2 tàu Trung Cộng đành nhượng bộ, bỏ chạy về hướng đảo Duy Mộng và Quang Hòa.<br /><br />Sau khi đuổi được hai tàu Trung Cộng, theo đặc lệnh hành quân, Tuần dương hạm HQ16 liền cho đổ bổ bộ toán nhân viên cơ hữu của tàu gồm 15 người lên đảo Cam Tuyền, mang theo súng ống, đạn dược, máy truyền tin và lương khô đủ dùng trong 3 ngày, do Trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy. Toán đổ bộ nầy đã hoàn tất công tác dẹp cờ Trung Cộng và cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa mà không gặp sự kháng cự nào của địch. Tiếp đó, HQ4 cũng cho đổ bộ 13 nhân viên cơ hữu lên đảo Vĩnh Lạc. Tại đây, Trung Cộng có 3 tàu neo gần đó, khi thấy lực lượng Việt Nam đổ quân họ lặng lẻ rút lui mà không chống trả.<br /><br />Đến khoảng 6:00 giờ chiều ngày 17-1-1974, phe Trung Cộng được tăng cường thêm 2 Hộ tống hạm Kronstadts mang số 271 và 274. Đặc tính của loại Kronstadt là mình hẹp, lườn thấp, có vận tốc cao để săn đuổi tàu ngầm, dài 170 ft, ngang 21.5 ft, 2 máy, 2 chân vit, vận tốc 24 knots, trang bị 1 hải pháo 100 ly (3.5 inch) ở sân trước và 2 đại bác 37 ly ở sân sau, 2 giàn thả thủy lựu đạn (Depth Charges) và 2 giàn thả mìn, thủy thủ đoàn khoảng 65 người. Vừa tới, 2 chiếc Kronstadts nầy từ phía đảo Quang Hòa hùng hổ xả hết tốc lực về hướng HQ4 và HQ16 với thái độ khiêu khích, thách thức. Không một chút nao núng, với đội hình tác chiến, 2 chiến hạm ta hùng dũng rẻ sóng xông lên nghênh cản tàu địch, đồng thời đánh quang hiệu yêu cầu địch ra khỏi hải phận Việt Nam. Địch cũng dùng quang hiệu yêu cầu ngược lại. Đôi bên trao đổi tín hiệu gần một tiếng đồng hồ mà không có kết quả nhưng trước thái độ cứng rắn của Việt Nam Cộng Hòa, 2 chiếc Kronstadts đành nhập đoàn với các tàu Trung Cộng khác lui về bố trí tại hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng.<br /><br />Trong khi tình hình đang căng thẳng ngoài Hoàng Sa thì ở đất liền, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bay ra Vùng I và được Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại thuyết trình vào lúc 8:00 giờ sáng ngày 17-1-1974 về lịch sử, địa lý, tài nguyên, chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa cùng những diễn tiến giữa lực lượng ta và lực lượng Trung Cộng ở Hoàng Sa. Sau khi nghe thuyết trình, Tổng Thống Thiệu đã ra những chỉ thị cho Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và nhấn mạnh câu: “Đừng để mất một tấc đất”.<br /><br />Được tin Trung Cộng gởi thêm quân và nhiều chiến hạm từ căn cứ Hải Quân Yulin ở đảo Hải Nàm (Hainan) đến Hoàng Sa, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cũng gởi thêm 2 chiến hạm, đó là Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ5, chiến hạm mang tên dũng tướng với câu nói khí khái: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” và Hộ tống Hạm Nhật Tảo HQ10 tăng viện cho Hoàng Sa. Hạm trưởng HQ5 là Hải Quân Trung tá Phạm Trọng Quỳnh, Khóa 11, còn Hạm trưởng HQ10 là Hải Quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà. Khóa 12. Cùng đi trên HQ5 có Hải Quân Đại tá Hà Văn Ngạc, Khóa 5, Chỉ huy trưởng Hải Đội 3 Tuần Dương, trực thuộc Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, vừa được chỉ định làm Tư Lệnh Đặc Nhiệm Chiến Dịch Hoàng Sa và Đại tá Ngạc dùng HQ5 làm Soái hạm để chỉ huy cuộc hải chiến. Sự hiện diện của Đại tá Hà Văn Ngạc, một sĩ quan cao cấp, nhiều kinh nghiệm, đã từng tu nghiệp ở Đại Học Hải Chiến Hoa Kỳ làm cho mọi người thêm vững tâm, lên tinh thần. HQ5 cũng còn chở theo 49 chiến sĩ Hải Kích (Người Nhái). Tinh hình vô cùng khẩn cấp mà HQ10 bị hư một máy chưa sửa chữa kịp chỉ chạy một máy thành thử vận tốc bị giảm khoảng 50%, thêm vào đó Radar của HQ10 cũng bị bất khiển dụng nên Đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ5 tách đoàn, tăng vận tốc để ra Hoàng Sa càng sớm càng tốt. Khoảng 3:00 giờ chiều ngày 18-1-1974, HQ5 ra đến Hoàng Sa. Lúc đó lực lượng của đôi bên như sau: ta có Khu trục hạm HQ4, 2 Tuần dương hạm HQ5 và HQ16, còn phía Trung Cộng có 2 Hộ tống hạm Kronstadts mang số 271 và 274, được coi là chủ lực của địch với 2 tàu chở quân võ trang mang số 402 và 407 cùng một tàu vận tải và một ghe buồm.<br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEitGudfRoo7e8XIBKIfFQ60Y61OkwIzEFZ4z6EFbASrRYfcA1q7XUblzKQTTvkLbZnSHdL7VC-QHwc3qtcOProOvph2Cy84G5oFnibGvMHBJFZkiud24YwZl26mTFt_gjWCjtXxotQQ4rs/s1600-h/CT_1706_HS-2.gif"><img style="WIDTH: 379px; HEIGHT: 191px; CURSOR: hand" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432427841248583250" border="0" hspace="5" alt="" align="left" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEitGudfRoo7e8XIBKIfFQ60Y61OkwIzEFZ4z6EFbASrRYfcA1q7XUblzKQTTvkLbZnSHdL7VC-QHwc3qtcOProOvph2Cy84G5oFnibGvMHBJFZkiud24YwZl26mTFt_gjWCjtXxotQQ4rs/s400/CT_1706_HS-2.gif" /></a>Vừa nhập vùng, Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho 3 chiến hạm chuẩn bị cuộc phô diễn lực lượng để thăm dò phản ứng địch. Đi đầu là Tuần dương hạm HQ16 rồi đến HQ5, sau cùng là HQ4 với các khẩu hải pháo 127 ly (5 inch), 76.2 ly và các đại bác 40 ly đơn, đại bác 40 ly đôi (2 nòng), đại bác 20 ly như sẵn sàng nhả đạn vào quân thù trong khi 3 lá đại kỳ nền vàng 3 sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa tung bay ngạo nghễ trên 3 cột buồm giữa gió chiều Hoàng Sa. Trong lúc các chiến hạm đang rẻ sóng thì các dàn Radars khổng lồ quay chầm chậm có nhiệm vụ phát hiện rồi cung cấp các dữ kiện để đo khoảng cách, hướng đi và vận tốc của tàu địch. Với 3 chiến hạm bệ vệ, bề thế lực lượng phe ta trông oai dũng và “ngầu” lắm. Đoàn tàu tiến theo đội hình hàng dọc từ phía Nam đảo Pattern trực chỉ về hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng, tất cả đều 2 máy tiến 2, cách khoảng nhau 500 mét. Khi vừa chạy được độ hai hải lý thì 2 chiến hạm chủ lực 271 và 274 của Trung Cộng đang nẳm im trong vùng biển cũng nổ máy, tăng tốc và cũng theo đội hình hàng dọc tiến thẳng về hướng đội hình tàu Việt Nam. Chiến hạm của Trung Cộng chạy rất nhanh, hai máy tiến full để lại đằng sau những bọt nước trắng xóa. Khi đến cách đoàn tàu ta chừng một hải lý, chiếc đầu của địch bỗng quay trái, được một đoạn ngắn lại quay ngược chiều 180 độ chạy băng ngang trước mũi HQ16. Vừa qua khỏi chúng lại lộn ngược trở lại về phía phải để vẽ một đường ngang khác trên mặt nước. Rồi chiếc thứ hai của chúng cũng lập lại những động tác y như chiếc đầu để cuối cùng đường giăng ngang của chúng vẽ nên chỉ cách tàu ta khoảng 150 mét. Trước thái độ khiêu khích của địch khiến phe ta khó xử. Dùng võ lực thì chưa có lệnh, còn tiếp tục tiến có thể gây tai nạn đụng tàu vì tàu Trung Cộng chạy quá nhanh mà khoảng cách lại quá gần. Cuối cùng đoàn tàu được lệnh quay mũi theo hàng dọc trở về hướng Bắc. Thế là cuộc phô diễn lực lượng coi như hoàn tất.<br /><br />Đến khoảng 10:00 giờ tối ngày 18-1-1974 chiếc HQ10 ra đến nhập đoàn với các chiến hạm Việt Nam. Đêm 18 rạng ngày 19-1-1974 nhằm đêm 29 Tết Nhâm Dần cũng là đêm cực kỳ căng thẳng. Trời tối thui như mực, các tàu Trung Cộng vẫn tiếp tục khiêu khích, tiến đến gần đảo Hoàng Sa, trên các tàu ta còi nhiệm sở tác chiến báo động liên hồi. Chiến hạm HQ4 phải dùng đèn hồ quang cực sáng trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng vào đội hình tàu địch và đánh quang hiệu yêu cầu họ ra khỏi lãnh hải Việt Nam cho đến khi tàu Trung Cộng rút lui tình hình mới dịu hơn. Đêm đó, tất cả các chiến hạm Việt Nam được lệnh trong tư thế Zebra, nghĩa là không để lọt ánh sáng ra ngoài hầu tàu địch không phát hiện được vị trí.<br /><br />Mặc dù phía Trung Cộng phản ứng mạnh, lực lượng Việt Nam vẫn tiến hành kế hoạch đổ quân tái chiếm đảo Quang Hòa như đã dự định. Lúc 6:50 giờ sáng ngày 19-1-1974, lực lượng đổ quân được chia làm hai toán. Toán Biệt Hải trên HQ4 được lệnh đổ bộ lên mặt Nam trong khi toán Hải Kích (Người Nhái) trên HQ5 đổ bộ lên mặt Tây Nam. Phần lớn sĩ quan và binh sĩ của toán Hải Kích được huấn luyện ở trường NAVY SEAL của Hoa Kỳ. Lực lượng độ bộ gồm toàn những thành phần được huấn luyện tinh nhuệ, thiện chiến nhất của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Ngay khi đặt chân lên bìa đảo, cả hai toán đều bị quân Trung Cộng đông hơn, dùng hỏa lực cực mạnh từ các chiến hào bắn xối xả khiến lực lượng đổ bộ không thể nào tiến sâu vào trung tâm đảo. Tình hình lúc bấy giờ thật nguy cấp và bất lợi cho lực lượng Việt Nam nhưng vì tuân hành thượng lệnh, quyết tâm bảo vệ lãnh thổ nên vào lúc 9:00 giờ sáng, toán Hải Kích được lệnh vượt lên trước. Hạ sĩ Người Nhái Đỗ Văn Long là chiến sĩ đầu tiên vừa nổ súng vừa xung phong vào đảo liền bị hỏa lực địch bắn tử thương. Trung úy Lê Văn Đơn nhào lên để thu hồi tử thi của đồng đội lại cũng bị đạn thù quật ngã. Trước quân số đông hơn và hỏa lực mạnh hơn của địch nên cả hai toán được lệnh rút về tàu với xác của Trung úy Đơn và các chiến sĩ bị thương khác, còn xác của Hả sĩ Long đành bỏ lại trên đảo vì nếu cố gắng vào thu hồi sẽ gây thêm nhiều thương vong.<br /><br />Anh Chị Đơn vừa có đứa con trai lên 2 tuổi, giống Anh như đúc, đặt tên là Lê Văn Nguyên. Cha tên Đơn đặt tên con là Nguyên. Sau khi Anh Đơn hy sinh, Chị Đơn đã đổi tên con thành Lê Hoàng Sa để tưởng niệm nơi cha cháu đã chiến đấu cho sự vẹn toàn lãnh thổ và đã anh dũng nằm xuống!<br /><br />Cuộc đổ quân tái chiếm đẳo thất bại vì địch đông hơn, hỏa lực mạnh hơn, 2 chiến sĩ đã đền nợ nước, một số khác bị thương, giặc đã chiếm đất, chiếm nhà của ta “Cái nhà là nhà của ta, công khó ông cha lập ra, cháu con phải gìn giữ lấy” cho nên Hải Quân Đại tá Hà Văn Ngạc ra chỉ thị cho các chiến hạm chuẩn bị tấn công, đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi. Các chiến hạm đều ở trong tình trạng chiến đấu toàn diện, còi nhiệm sở tác chiến rú lên dồn dập, liên hồi như thúc giục bước chân của các chàng lính thủy chạy nhanh hơn vào các nhiệm sở chiến đấu. Tất cả thủy thủ đoàn với áo giáp, phao nổi, nón sắt ngồi trong các ụ hải pháo chờ lệnh khai hỏa, sẵn sàng tác xạ tiêu diệt địch. Sau khi các đài chiến báo (CIC) từ các chiến hạm báo cáo “sẵn sàng” thì từ Soái hạm HQ5, Hải Quân Đại tá Hà Văn Ngạc, Tư Lệnh Chiến Dịch Hoàng Sa ban hành lệnh “khai hỏa” hồi 10 giờ 24 phút sáng ngày 19-1-1974.<br /><br /><strong><span style="color:#000066;">Trận hải chiến bắt đầu</span></strong><br /><br />Trong khi tấn công, các chiến hạm Việt Nam theo đội hình tác chiến vòng cung, xông thẳng vào tàu địch, một đối một, tác xạ đồng loạt. Máy tàu rú lên tăng vận tốc, chân vịt gầm gừ ra sức đẩy con tàu nhanh thêm, mũi tàu xé nước trùng dương lướt tới, các chiến sĩ ta mắt sáng quắc đang nhả đạn vào đoàn tàu xâm lăng như mưa. Sóng Hoàng Sa làm sống lại Tiếng Sóng Vân Đồn, khí thế Bạch Đằng Giang đang sôi sùng sục trong huyết quản các chiến sĩ Hoàng Sa ...“Đây Bạch Đằng Giang, sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, giống oai hùng Nam-Bắc-Trung ...”(Hải Quân Hành Khúc). Khói lửa bốc lên mịt mù, không khí khét lẹt mùi thuốc súng trong buổi bình minh trên Biển Đông. Tiếng đạn hải pháo xé gió rít lên những âm thanh nghe rợn người, đạn rơi lủm chủm trên mặt biển, đạn nổ quanh tàu bắn tung những cột nước lên cao, thân tàu run lên bần bật vì trúng đạn. Một chiến sĩ ta bị trúng đạn địch ngã xuống thì chiến sĩ khác phóng lên ôm súng nhả đạn vào tàu địch xâm lăng, hai chiến sĩ ta ngã xuống thì có hai chiến sĩ khác nhào lên tiếp tục ghì súng chiến đấu chống giữ Hoàng Sa ngàn đời máu thịt của Việt Nam ta.<br /><br />Hồn thiêng sông núi như đang cất những tiếng cười ngạo nghễ giữa tiếng súng nổ đạn bay vì Tổ Quốc Việt Nam đã có những người con hào hùng như các chiến sĩ Hoàng Sa: <ul><i><span style="color:#000066;">Cuối hàng thế kỷ thứ hai mươi,<br />Chống giữ Hoàng Sa cũng lắm người!</span><br />(Thơ của Ngọc Giao Nguyễn Đình Nhạc)</i></ul><p align="justify">Trận hải chiến tiếp diễn khốc liệt, với chiến thuật “tốc chiến, tốc thắng”, các chiến hạm Việt Nam chiếm được thế thượng phong vì bắn trước với cỡ súng lớn hơn. Các tàu địch bị thiệt hai nhiều trong những phút đầu của cuộc giao tranh, chiếc Hộ tống hạm Kronstadt 271 của địch bị trúng hải pháo 76.2 ly và 40 ly của HQ4 nên không còn khả năng tác chiến sau đó phát nổ và chìm. Hạm trưởng chiếc nầy là Đại tá Vương Kỳ Uy bị tử thương với một số thủy thủ đoàn. Nhưng cũng như những chiến hạm khác của ta, HQ4 cũng là mục tiêu khá lớn cho tàu địch nên cũng bị trúng nhiều vết đạn. Một trái hải pháo địch thổi bay hệ thống hút khổng lồ của HQ4. Trong lúc hổn chiến, bộ phận quan sát bằng ống dòm trên nóc đài chỉ huy của HQ4 báo cáo có hai tàu địch đang đuổi theo. HQ4 liền tăng vận tốc tối đa và vận hành theo đội hình tác chiến Zig Zag, uốn lượn như con rắn nên tránh được các quả hải pháo của 2 tàu địch đang đuổi theo. Ngay lúc đó, chiếc HQ5 cũng vừa trờ tới, cắt ngang đuôi HQ4, phóng vào 2 tàu địch đang đuổi theo HQ4. Những khối cầu lửa từ khẩu 127 ly trước mũi HQ5 bay thẳng về hướng 2 tàu Trung Cộng, một chiếc của địch bị trúng đạn bốc cháy, khói lên ngùn ngụt, chiếc còn lại quay ngang bỏ chạy mất dạng. Chiếc HQ4 bị thiệt hại nhẹ so với các tàu khác, máy móc chính, hệ thống điện, hệ thống truyền tin vẫn trong tình trạng khiển dụng tốt và con tàu vẫn còn khả năng tác chiến. Về nhân mạng. HQ4 có hai chiến sĩ là Hải Quân Thiếu úy Nguyễn Phúc Xá và Hạ sĩ nhất Vận chuyển Nguyễn Thành Danh hy sinh cùng một số đoàn viên khác bị thương. Anh Danh bị trúng đạn nơi ngực thoi thóp trên băng-ca, ngực đầy bông băng nhuộm máu, Thượng sĩ Giám lộ Lữ Công Bảy rờ lên trán thấy nóng hối và hỏi Anh có khỏe không, Anh mở mắt gật đầu nhưng sau đó lịm dần rồi vĩnh viễn ra đi.<br /><br />Chiến hạm của Trung Cộng bị trúng đạn của HQ5 bốc cháy nói trên là chiếc Hộ tống hạm Kronstadt 274. Sau khi bị trúng đạn, chiếc nầy phải ủi vào bãi san hô để tránh bị chìm nhưng sau đó cũng bị phá hủy hoàn toàn. Chiếc nầy cũng là Soái hạm của địch do Đô Đốc Phương Quang Kính làm Tư Lệnh, chỉ huy cuộc hải chiến. Đô Đốc Phương Quang Kính còn là Tư Lệnh Phó Hải Đội Nam Hải của Trung Cộng. Ngoài Hạm trưởng là Đại tá Quang Đức tử thương, toàn bộ tham mưu của Soái hạm địch gồm Đô Đốc Phương Quang Kính, 2 Đề Đốc, 4 Đại tá, 6 Trung tá, 2 Thiếu tá và 7 sĩ quan cấp úy đều tử thương. Về phần HQ5 cũng bị trúng đạn nhiều nơi, con tàu đầy vết đạn của địch. Các ổ hải pháo 127 ly và 40 ly đôi trước mũi bị trúng đạn nên trở ngại tác xạ, chỉ còn khẩu 40 ly bên tả hạm và 2 khẩu 20 ly là còn sử dụng được. Chính khẩu 40 ly nầy do Thượng sĩ Trọng pháo Tài làm trưởng khẩu đã khạc đạn tới tấp không cho tàu địch xáp lại gần. Lửa bốc cháy và nước tràn vào nhiều nơi, Hạm trưởng phải ra lệnh làm ngập nước hầm đạn 127 ly để tránh đạn phát nổ vì lửa cháy và điện chạm. Tuy bị hư hại khá trầm trọng nhưng HQ5 không có nguy cơ bị chìm và sau đó cơ khí trưởng là Thiếu tá Trần Đắc Nguyền, một sĩ quan cơ khí nhiều kinh nghiệm đã điều động nhân viên ra sức dập tắt các đám cháy và hàn bít các lỗ thủng nước đang tràn vào, sửa chữa các máy móc bị hư hỏng nên một thời gian ngắn sau đó con tàu đã trở lại tình trạng hoạt động gần như bình thường. Về nhân mạng, HQ5 có 1 sĩ quan và 2 hạ sĩ quan hy sinh, 3 sĩ quan cùng 4 hạ sĩ quan và 9 đoàn viên bị thương nặng nhẹ.<br /><br />Về phần HQ16, sau khi dùng các khẩu 127 ly và 40 ly bắn hư hại chiếc Trục lôi hạm 389 của Trung Cộng khiến Hạm trưởng là Trung tá Triệu Quát bị tử thương, Tuần dương hạm HQ 16 cũng bị trúng nhiều hải pháo hư hải nặng. Hầm đạn 127 ly trước mũi bị thủng một lỗ lớn, nước tràn vào mỗi khi mũi tàu chúc xuống nên phải cô lập. Máy điện cũng bị trúng đạn, dây điện bị đứt nhiều nơi, hầm máy chỗ nào cũng bị chạm điện khiến những nhân viên có phận sự ở khu vực nầy bị điện giật nên phải di tản. Nguy hơn nữa là hông tàu ngay hầm máy tả bị đạn hải pháo địch bắn trúng phá một lỗ lớn ngang tầm nước làm nước biển tràn vào như thác lũ, chiến hạm mỗi lúc nghiêng thêm về bên trái và có nguy cơ bị chìm. Sau cùng, nhờ sĩ quan cơ khí trưởng là Đại úy Hiệp đôn đốc nhân viên ra sức cô lập hầm máy tả nên chiến hạm vẫn tiếp tục vận chuyển được bằng máy bên hữu. HQ16 chì có một chiến sĩ hy sinh, đó là Trung sĩ Điện khí Xuân bị đứt lìa cánh tay phải ở hầm máy vì không cầm máu được nên Anh đã đền nợ nước. Trung úy Bính đã vuốt mắt và cùng các y tá cầu nguyện cho Anh bằng Thánh Kinh dù không rõ Anh tôn giáo nào.<br /><br />Còn Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 là chiến hạm nhỏ nhất, hỏa lực yếu nhất trong số các chiến hạm Việt Nam tham chiến, ngoài ra tình trạng kỹ thuật cũng không khả quan cho lắm vì hư một máy, vận chuyển, xoay trở chậm chạp nên bị trúng nhiều đạn. Một trái hải pháo 100 ly của địch bắn trúng đài chỉ huy, đốn ngã tất cả các nhân viên có phận sự tại đây. Hạm trưởng Hải Quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà và Hạm phó Hải Quân Đại úy Nguyễn Thành Trí đều bị thương nặng. Kế tiếp, một trái hải pháo khác trúng ngay hầm máy làm cho chiến hạm tê liệt, hoàn toàn bất khiển dụng, trôi lờ đờ, lềnh bềnh trên mặt biển làm muc tiêu cho tàu địch tác xạ xối xả. Số thương vong của HQ10 rất nặng và nhiều chiến sĩ chết một cách thê thảm như Trung úy Vũ Văn Bang, sĩ quan Đệ Tam chết thân xác không toàn vẹn tại Trung Tâm Chiến Báo (CIC); Trung úy Cơ khí Ngô Chí Thành chết ở phòng máy bị cháy nám đen và hai chân hầu như lìa khỏi thân người; Trung úy Nguyễn Văn Đông chết mất mặt tại khẩu 76.2 ly ở sân trước; Hạ sĩ Vận chuyển Lê Văn Tây, người Ban Mê Thuột nhưng yêu màu áo trắng, yêu mộng hải hồ nên sau khi lấy bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp gia nhập Hải Quân và đền nợ nước bằng cách ghì khẩu súng cho đến giờ phút chót; Thủy thủ Cơ khí Đinh Hoàng Mai ôm khẩu 20 ly bắn che cho các đồng đội trên bè đào thoát, bạn bè gọi xuống bè ra đi nhưng không chịu xuống, ở lại chết theo con tàu... và còn nhiều chiến sĩ khác đã liệt oanh nằm xuống mà ở đây không đủ giấy mực để kể cho hết. Những người còn sống sót dìu dắt các chiến hũu bị thương lên 5 chiếc phao tập thể, tất cả là 28 người, kể cả Hạm phó Nguyễn Thành Trí. Riêng Hạm trưởng Ngụy Văn Thà từ chối ra đi mặc dù các chiến hữu yêu cầu nhiều lần. Anh ở lại chết theo con tàu đúng với truyền thống cao đẹp của Hải Quân và Hàng Hải. Trên đường đào thoát, có 8 chiến sỉ, trong đó có Hạm phó Nguyễn Thành Trí bị chết vì các vết thương, vì đói khát, vì kiệt sức trước khi được chiếc tàu dầu Hòa Lan Skopionella cứu vớt vào đêm 22-1-1974. Khi các chiến sĩ ta được vớt lên, chính tay nhị vị phu nhân của Thuyền trưởng và Thuyền phó tàu nầy đã tận tình băng bó, săn sóc các vết thương, đút từng muỗng cháo cho các chiến sĩ Việt Nam thể hiện tình người bao la. Thật là một nghĩa cử đẹp không bao giờ quên được!<br /><br />Trong trận chiến, HQ10 đã mượn đáy biển Hoàng Sa làm mồ dũng sĩ, mang theo 42 người con yêu của Tổ Quốc, kể cả Hạm trưởng Hải Quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà, Khóa 12, sinh ngày 16-1-1943 tại Trảng Bàng, Tây Ninh. Anh lập gia đình với Chị Huỳnh Thị Sinh, Chị Sinh còn rất trẻ, chưa tới tuổi 30. Hai Anh Chị có được 2 người con gái, còn rất nhỏ, cháu đầu 4 tuổi, cháu sau 2 tuổi. Cùng chết theo tàu có Trung úy Vũ Văn Bang, ngày tàu rời Sài Gòn đi công tác, Anh Bang có đem theo tấm hình của đứa con gái đầu lòng chưa đầy tháng để khoe với bạn bè. Khi chết, tấm hình của cháu vẫn còn nằm trong túi áo trận trên ngực Anh, được bọc bằng giấy ny-lon cho không bị ướt: </p><ul><i><span style="color:#000066;">Sóng biển chiều nay cuồn cuộn quá,<br />Còn đây uy dũng pháo Hoàng Sa.<br />Vành khăn tang trắng đầu con trẻ,<br />Kinh buồn vĩnh biệt tiếng cười cha!</span><br />(Thơ Nguyệt Trinh)</i></ul><p align="justify">Còn Trung sĩ Giám lộ Vương Thương, cũng thuộc HQ10 đã chết trên bè đào thoát. Anh bị mảnh đạn chém đứt mông trái và vĩnh viễn nằm xuống vì máu ra quá nhiều. Anh đã hy sinh cho đất nước trước ngày làm lễ cưới. Lẽ ra Anh đã được đi phép cưới vợ, giấy phép đã cầm trong tay nhưng Hạm trưởng động viên Anh ở lại đi công tác chuyến nầy vì Anh quá rành quần đảo Hoàng Sa. Ngày tàu nhổ neo rời bến, người vợ sắp cưới ra tận cầu tàu tiễn chân Anh, nàng âu yếm nắm chặt tay người yêu như trao tất cả tình thương và hẹn ngày Anh về hai người sẽ làm đám cưới trọn đời yêu nhau cho vẹn lời nguyền trăm năm kết tóc xe duyên ... nhưng: </p><ul><i><span style="color:#000066;">Lần tiễn đưa hôm ấy một lần thôi,<br />Là chiến sĩ một đi không trở lại!<br /></span>(Giòng Lệ Cuối — Phạm Từ Quyên)</i></ul><p align="justify">Riêng toán đổ bộ lên đảo Cam Tuyền của HQ16, khi trận hải chiến xảy ra, HQ16 không thể vớt họ được vì đang chiến đấu với tàu địch nếu tàu ngừng lại để vớt họ thì con tàu sẽ là mục tiêu bất động cho tàu địch vì thế Hạm trưởng Lê Văn Thự liên lạc bằng máy truyền tin với Trung úy Liêm, sau khi thông báo tình hình bất khả kháng của chiến hạm, ông đã động viên anh em dùng bè đào thoát, cố vượt ra khỏi vùng giao tranh, đồng thời yêu cầu mọi người thông cảm sự bất lực của ông trước tình hình hiện tại vì ông đang mang trách nhiệm về sự an toàn của con tàu và sinh mạng của hàng trăm thủy thủ đoàn. Càng nói, trông ông càng đau đớn, đôi mắt đỏ hoe như ông đang muốn khóc vì không vớt được các chiến hữu và đồng đội của ông!<br /><br />Sau đó, toán đổ bộ nầy dùng bè cao su vượt thoát ngay tức khắc trong lúc cuộc hải chiến đang xảy ra. Khi họ đang lênh đênh trên những xuồng đào thoát, một chiến hạm địch bị trúng đạn của phe ta, cả toán 15 chiến sĩ nầy biểu lộ tinh thần yêu nước cao độ bằng cách tất cả cùng giơ cao những cánh tay và đồng ca bản “Việt Nam — Việt Nam” (Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời ... Việt Nam nước tôi ...) Và sau 10 ngày chống chọi với sóng gió, đói khát các chiến sĩ ta được ngư dân ở Qui Nhơn cứu sống. Chỉ có một chiến sĩ hy sinh sau khi đã lên thuyền ngư dân, đó là Hạ sĩ Quản kho Nguyễn Văn Duyên. Anh Duyên đã ra đi vì đói, khát và kiệt sức. Khi được ngư dân vớt lên thuyền, họ như những người về từ cõi chết, xơ xác, ốm yếu, tiều tụy, mắt lõm sâu như những hố thẳm, râu tóc xồm xàm, rậm rạp trông họ như những người rừng. Nhưng tận đáy lòng Mẹ Việt Nam họ là những người con kiêu hùng của Mẹ về từ Tổ Quốc Đại Dương.<br /><br />Sau trận hải chiến, khoảng 7:00 giờ sáng ngày 20-1-1974 đoàn chiến hạm ta về đến bến thương cảng Đà Nẳng nhưng đoàn tàu vắng bóng HQ10. Trên bến, đồng bào đứng đông nghẹt, chen chút nhau tiếp đón các chiến sĩ Hoàng Sa bằng một rừng biểu ngữ với các khẩu hiệu: “Hải Quân Việt Nam quyết tâm bảo vệ lãnh thổ đến giọt máu cuối cùng” “Một ý chí: chống cộng - Một lời thề: bảo vệ quê hương” “Hoan hô tinh thần chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ Hải Quân tham dự Hải Chiến Hoàng Sa” “Hoan hô tinh thần bất khuất của các chiến sĩ Hải Chiến Hoàng Sa”<br /><br />Chiến sĩ Hoàng Sa, các Anh rất xứng đáng được vinh danh là những người con yêu của đất nước! Các Anh đã không phụ lòng những bà mẹ hiền đã âu yếm trao các Anh cho đất nước khi các Anh vừa khôn lớn. Các Anh cũng không phụ lòng mái quân trường đã đào tạo các Anh thành những người trai thời chiến. Các Anh cũng không phụ lòng đồng đội, chiến hữu khi các Anh xông pha trong các chiến trường lửa đạn. Và các Anh cũng không phụ lòng đồng bào đã trao trọn niềm tin nơi các Anh. Lính nào cũng là lính, lính nào cũng đóng góp xương máu cho quê hương đất nước và các Anh cũng vậy, các Anh đã đại diện màu áo để góp máu cho Tổ Quốc.<br /><br />Trận Hải Chiến Hoàng Sa đã nói lên hùng tính Việt tộc, đồng thời nối tiếp tinh thần chống Bắc xâm của dân tộc ta. “Hải Chiến Hoàng Sa” là một bản hùng ca phụ vào với “Bình Long Anh Dũng” - “Kontum Kiêu Hùng” - “Trị Thiên Vùng Dậy” để tô đậm thêm những nét son cho Pho Hùng Sử Của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.<br /><br /><strong>Lê Thương</strong><br /></p><p></p><p></p>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-75236146386868156672010-01-30T18:04:00.000+11:002010-01-30T18:05:05.453+11:00CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI LÍNH TỬ THỦ AN LỘC - Phạm Phong Dinh<div style="TEXT-ALIGN: justify"><center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S2POuFG8HEI/AAAAAAAAHq4/U__DIHnGO7o/s1600-h/CT_2706_PPD-1.gif"><img style="WIDTH: 488px; HEIGHT: 594px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432412866579536962" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S2POuFG8HEI/AAAAAAAAHq4/U__DIHnGO7o/s400/CT_2706_PPD-1.gif" /></a><br /></center><br /><br /><span style="font-size:85%;"><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Phạm Phong Dinh</span></span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">(Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Bão Lửa – Tri Ân những Người Lính QLVNCH)</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold;font-size:180%;" >N</span>gày 07.07.1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đáp xuống An Lộc tuyên dương công trạng và đặc cách thăng cấp tất cả chiến sĩ tử thủ An Lộc sau gần ba tháng ác chiến với bốn sư đoàn cộng quân 5, 7, 9 và Bình Long. Trong lúc tình hình mặt trận vẫn còn rất ngột ngạt, tuy rằng các sư đoàn địch đã lùi ra xa, nhưng không có gì bảo đảm rằng sự hiện diện của vị Tổng Tư Lệnh là không nguy hiểm cho chính bản thân ông. Tổng Thống Thiệu được đích thân Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh lái xe Jeep chở đi một vòng thành phố để quan sát những đổ vỡ của chiến tranh. Tổng Thống Thiệu đã cảm khái đứng lặng thinh bên những nấm mộ chôn vội của tử sĩ và người dân An Lộc. Chiếc xe Jeep phải chạy ngang khu bến xe An Lộc để ông có thể ngậm ngùi trông thấy được một cái nghĩa trang nhỏ, đơn sơ nhưng rất tươm tất, nơi an táng hình hài của 68 anh hùng 81 Biệt Cách Dù, mà đã được đồng đội còn sống lập nên thành.<br /><br />Chiến thắng An Lộc mang một kích thước quá lớn, không còn của riêng dân tộc Việt Nam đánh bại đạo quân tiền phong của khối cộng sản quốc tế là binh đội Bắc Việt, mà nó còn là một biểu tượng của thế giới tự do đánh thắng chủ nghĩa cộng sản, là khúc dạo đầu báo hiệu sự hủy diệt cái chủ nghĩa quái thai đó 17 năm sau: Cuộc sụp đổ năm 1989 của Liên Sô và khối cộng sản Đông Âu. Tổng Thống Thiệu đã trân trọng trao tặng quân dân tử thủ ở cái thành phố nhỏ bé mà cang cường này một mỹ danh mà sẽ vĩnh viễn đi vào những trang sử dân tộc và cả quân sử thế giới: <span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">BÌNH LONG ANH DŨNG – AN LỘC ANH DŨNG</span>. Vị Tổng Thống đã vui vẻ gọi về cho phu nhân của mình, giọng hân hoan của ông có thể được nghe rộng khắp đất nước từ hàng triệu chiếc máy thu thanh:<br /><br />- Bà đừng chờ cơm tôi. Tôi ở đây ăn cơm với anh em chiến sĩ An Lộc.<br /><br />Người cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã tươi cười đứng giữa những chiến hữu của ông chụp nhiều bức hình, mà ngày hôm sau đã nằm ở trang đầu của những tờ báo Thủ Đô Sài Gòn và cả trên các báo khắp thế giới. Đó há chẳng phải là một vinh dự cực lớn mà quân dân Bình Long Anh Dũng đã xứng đáng nhận được từ chính máu xương của mình. Há chẳng phải đó là một thách thức ngạo nghễ đối với lũ âm binh què quặt của bốn sư đoàn cộng quân đang lẩn trốn đâu đó trong những cánh rừng già Miền Đông và bên kia biên giới. Há chẳng phải là một cú đấm ngàn cân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào giữa mặt cái khối gọi là “các nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Há chẳng phải đó mà một xác nhận cuộc chiến bại nhục nhã mà tướng tá Hà Nội dù có lật lọng đến đâu cũng phải cúi đầu câm nín hay sao.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S2POtbklXpI/AAAAAAAAHqw/wEez4_Png50/s1600-h/CT_2706_PPD.gif"><img style="WIDTH: 324px; HEIGHT: 224px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432412855429586578" border="0" hspace="5" alt="" align="right" src="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S2POtbklXpI/AAAAAAAAHqw/wEez4_Png50/s400/CT_2706_PPD.gif" /></a>Chiếc trực thăng phành phạch đập cánh quạt đưa Tổng Thống Thiệu và phái đoàn hùng hậu quan khách Sài Gòn ra thăm viếng đã xa dần. Nhưng đối với quân dân An Lộc, cuộc chiến đấu vẫn còn rất gian nan ở phía trước. Cộng quân đâu đã cam chịu chiến bại, các đơn vị của chúng vẫn còn lẫn quẩn bên ngoài An Lộc dội pháo quấy phá ngày đêm. Ngày 22.06.1972, các đơn vị tiền phong của Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã nhảy xuống thay thế nhiệm vụ trấn thủ An Lộc cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Các đơn vị Sư Đoàn 5 Bộ Binh lục tục được không vận về Căn Cứ Lai Khê, trong khi các đơn vị của Sư Đoàn 18 tiếp tục đổ vào thành phố. Vẫn còn một khối lượng công tác chiến đấu ngổn ngang đang chờ đón đoàn tinh binh tràn đầy nhuệ khí này. Đồi Gió, Đồi 169, phi trường Quản Lợi vẫn còn đang nằm trong tay quân giặc. Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và chiến sĩ Nỏ Thần Miền Đông của ông sẽ rất bận rộn trong những ngày hành quân trước mặt. Nhưng dù thế nào mặc lòng, buổi chào cờ sáng và thượng Quốc Kỳ mỗi thứ Hai luôn được Chuẩn Tướng Đảo cho cử hành trang trọng, bất chấp địch đang pháo hay không pháo.<br /><br />Trong những ngày ngột ngạt đó, phóng viên chiến trường Lưu Văn Giỏi nhận lệnh của Bộ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam Cộng Hòa nhảy xuống An Lộc để ghi nhận những đổ nát của chiến tranh, những hoạt động âm thầm của những người lính bay Không Quân và người lính Bộ Binh, cùng quân dân An Lộc đã chiến đấu anh dũng như thế nào, đang và sẽ chiến đấu ra sao, cùng những mất mát não lòng. Anh Lưu Văn Giỏi từng là Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Toronto, Canada nhiều nhiệm kỳ. Anh đã về hưu từ lâu và vui thú điền viên. Nhưng những thiên bút ký chiến trường ngày xưa của anh và những đóng góp của anh trong công cuộc đấu tranh chống cộng và tôn vinh Lá Cờ Vàng Đại Nghĩa cùng Những Người Lính QLVNCH vẫn luôn ghi khắc sâu trong lòng mỗi chúng ta. Bài viết Trên Vùng Trời Đất Nước của anh đã nhận được Giải Ba Cuộc Thi Phóng Sự Chiến Trường Năm 1973 của Cục Chính Huấn:<br /><br />Tại Sư Đoàn 2 Không Quân, tôi nhận một công điện từ Bộ Tư Lệnh Không Quân gọi về trình diện gấp, vì nhu cầu công vụ, thời gian công tác và ngày về sẽ cho đơn vị biết sau. Một chiếc phản lực A37 đi công tác đưa tôi từ Nha Trang vào Sài Gòn. Tại Parking vãng lai, tôi thót lên “Honda ôm” trực chỉ Bộ Tư Lệnh Không Quân. Và nửa giờ sau tại đây tội nhận một sự vụ lệnh khác, thời gian và nơi đến là 8 ngày tại An Lộc. Tờ mờ sáng hôm sau, tôi có mặt trên bãi đậu trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân để đi Lai Khê. Lần đi này ngoài hợp đoàn 18 chiếc trực thăng võ trang UH, còn có 6 chiếc CH 47 (loại trực thăng khổng lồ tải hàng)<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">30 phút ở Lai Khê</span><br /><br />Phi trường Lai Khê là một phi trường nhỏ được dùng làm Bộ Chỉ Huy Tiền Phương, tất cả trực thăng yểm trợ cho An Lộc đều đặt ở đây để tiện đường cho quân bạn tải quân, tải hàng đến, và nhất là để thu ngắn đường chim bay đến An Lộc. Tại đây, dưới những gốc cao su già có những hàng cơm, hàng nước kiểu dã chiến, vài hoa tiêu mắc võng nằm nhai bánh mì chờ ... thời tiết.<br /><br />Tôi gặp Đại Úy Đào Vũ Anh Hùng, nhà văn kiêm hoa tiêu trực thăng. Thấy tôi, Hùng hỏi:<br /><br />- Đi làm hay đi chơi?<br /><br />Câu hỏi ngắn và tôi cũng trả lời gọn:<br /><br />- Đi làm.<br /><br />Hùng moi trong túi áo bay ra một gói xôi bắp đã bẹp:<br /><br />- Ăn không?<br /><br />Tôi lắc đầu vỗ nhẹ tay lên bụng, trong khi anh nhìn tôi từ đầu đến chân:<br /><br />- Vào Điện Biên Phủ thứ hai mà cứ y như là đi du lịch vậy? Không có áo giáp, nón sắt thì phòng không và pháo kích nó không chê bạn đâu.<br /><br />Hùng chỉ chiếc máy ảnh tôi đang mang trước ngực:<br /><br />- Phải có thêm một nón sắt nhỏ cho ống kính mới an toàn, nếu không thì bạn có nhiều triển vọng thất nghiệp đấy!<br /><br />- Kỳ trước có một ông bạn Báo Chí lên An Lộc, khi ông ta vừa đưa máy lên ngắm thì một viên AK đã ưu ái chui vào nằm gọn trong ống kính. Cũng may là tầm đạn đã yếu nên không bị chột.<br /><br />Có nhìn thấy cái cảnh phi công Việt Nam treo võng nằm tòn teng dưới những gốc cao su gậm bánh mì, cạp xôi bắp chờ phi vụ ta mới thấy thương họ. Nghỉ ngơi và ăn uống như thế mà bay như điên, bay bất kể giờ giấc và thời tiết. Có khi vừa đáp, chưa kịp nghỉ ngơi mà thấy có tên trong Phi Vụ Lệnh là lại xách nón đi bay. Cứ sáng vác tàu đi, tối vác về ... Có người đi rồi không bao giờ trở lại. Cũng có người về mà trên thân tàu lỗ chỗ đầy dấu đạn phòng không. Cũng có người khi đã đáp an toàn trên bãi đậu rồi mới biết người xạ thủ phi hành của mình đã gục đầu trên cây đại liên mà chết tự lúc nào. Cũng có khi người hoa tiêu chánh bị phòng không ngồi chết ngay ngắn trong ghế lái trong “tư thế còn sống”, cái chết thật đẹp như cái chết của một Từ Hải mà người hoa tiêu phụ vẫn cố cắn răng để nước mắt mình lăn dài xuống má, tiếp tục bay thi hành cho xong sứ mạng đã, rồi mới về. Cũng có người phải bỏ tàu giữa rừng để về bằng một tàu khác, hoặc băng rừng lội suối, rồi năm bảy ngày sau mới về với một thể xác đói khát và đầy thương tích. Ta có thể so sánh những tiện nghi cùng số giờ bay và thành tích chiến đấu một trời một vực giữa phi công Hoa Kỳ và phi công Giao Chỉ như sau:<br /><br />Pilot Hoa Kỳ không biết mắc võng ở gốc cây nằm gặm bánh mì chờ phi vụ như pilot An Nam ta. Hồi tháng 4.1972, ở mặt trận Tây Nguyên, tại Bộ Chỉ Huy của tiền đồn Tân Cảnh, tôi đã thấy một Đại Úy phi công Hoa Kỳ trong bữa cơm. Ông ta đã ăn gần nửa ký thịt với bơ, sữa, hột gà, táo, nho, rồi mới bước lên chiếc trực thăng võ trang Cobra mà cất cánh, trong khi hoa tiêu Giao Chỉ cũng trước một phi vụ nhưng chỉ ... “thổi hết một cái kèn bằng bột”, rồi ngửa cổ ừng ực nước lã trong bi đông, xong ... cuốn võng leo lên ghế lái, bay vù vù, bay như điên. Về số giờ bay và thành tích, ta có thể so sánh thật thà như sau: “Chiến trận Hạ Lào chính thức khai diễn ngày 08.02.1971, trong 29 ngày đầu tại đây, người Mỹ có số giờ bay cao nhất là một Thiếu Tá, 80 giờ. Trong khi đó, phi công có số giờ bay cao nhất là Trung Úy Dương Đức Ngọc, thuộc Không Đoàn 62 Chiến thuật, Sư Đoàn 2 Không Quân, 168 giờ. Người Mỹ đánh nhiều chiến xa nhất, một Trung Úy phi công phản lực, 3 chiếc. Trong khi đó Trung Úy Dương Đức Ngọc đánh 17 chiếc T54. Số giờ bay và thành tích đó đã làm vẻ vang về tinh thần chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bên cạnh quân đội đồng minh tại Hạ Lào. Trong trận này, Ngọc cũng là người lãnh đạn phòng không nhiều nhất. Một lần phi cơ anh đứng một chong chóng, phải đáp ở Đà Nẵng lúc 23 giờ 30, 3 lần khác bị gãy cánh trái và cánh đuôi, nhưng lúc bấy giờ thời tiết ở Việt Nam không cho phép, nên anh phải dẫn tàu qua Thái Lan đáp trên phi trường Nakhom – Phakhom. Sự so sánh thật thà trên đã là một chứng minh cụ thể cho ta thấy tinh thần chiến đấu cao độ của người lính Việt Nam trên đất nước nghèo nàn này.<br /><br />Đồng hồ tay chỉ 7 giờ 45, trời vẫn còn xấu. Các hoa tiêu có vẻ sốt ruột, họ tụm năm tụm ba ngồi đấu láo với nhau, nói chuyện thời tiết, nói chuyện phi vụ hôm qua, chuyện hào hoa, lả lướt đêm rồi và bàn với nhau cho phi vụ sắp tới. Một nhân viên của toán Điều Không đến nói với Hùng:<br /><br />- Cứ cất cánh, vì An Lộc đang chờ.<br /><br />Tôi đứng dậy nhưng không đi với Hùng, vì anh bay tàu C and C (Hướng dẫn C and C = Command and Control và chỉ huy, không đáp). Tôi theo chân một hoa tiêu ra chiếc võ trang đậu ngoài bãi. Tại đây, lương thực, vũ khí, đạn dược và chiến sĩ đổ bộ đã chờ sẵn. Tôi đi chiếc tàu tải đạn. Mười phút sau tất cả những chiếc trực thăng tại đây đã bốc khỏi mặt đất và ... trực chỉ An Lộc. Trên đường từ Lai Khê đến An Lộc trần mây thật thấp, sương mù còn thật mù, họ phải để đèn báo hiệu cho khỏi đụng nhau trên trời. Ngồi trên trực thăng nhìn chung quanh những chiếc võ trang đang lù lù bay theo, tôi có cảm tưởng như đây là một đàn ong khổng lồ bị vỡ tổ và đang di dân. Sau vài phút bay, đến một nơi quang đãng hơn, dưới mắt tôi ruộng đồng xơ xác, những hàng tre cháy xém, những hố đạn, hố bom cày nát trên ruộng đất bỏ hoang ...<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Nhảy xuống An Lộc</span><br /><br />Người xạ thủ phi hành ghé váo tai tôi:<br /><br />- Anh có xuống không?<br /><br />Tôi gật đầu. Anh ta lại nhìn tôi với vẻ ái ngại như thầm hỏi tôi sao không có áo giáp và nón sắt, nhưng ... tôi lờ đi. Bỗng anh khom lưng chỉa mũi minigun xuống đất bấm cò. Những hồi đạn rú dài như ... bò rống. Tôi thấy ... rức tim khi những vệt lửa từ dưới xẹt lên quanh phi cơ. Xung quanh tôi, năm chiến sĩ bộ binh thuộc Sư Đoàn 18 cũng ... lên đạn. Tôi cũng nhét vội băng đạn vào khẩu Colt của mình cho vững bụng. Đang bay, tàu bỗng xà xuống đột ngột rồi bất ngờ đáp vội trên Quốc Lộ 13, “càng” chưa chạm đất, mấy quả đạn pháo kích đã ào ào bay tới rớt quanh đó làm gãy mấy cây cao su. Tôi nhảy vội theo năm chiến sĩ rời thân tàu và lăn tròn qua mặt lộ nằm gọn dưới một hố bom. Chúng tôi chưa kịp xô hàng xuống, thì tàu đã bốc vội lên cao bay mất hút, một trái dạn khác rớt ngay chỗ phi cơ vừa đáp làm banh xác cái ba lô vô tội của một chiến sĩ vừa quăng xuống. Mấy bịch gạo xấy tung tóe trắng mặt đường. Tôi nằm dưới hố bom mà thầm nghĩ: “Người Mỹ đã dạy cho người Việt biết đánh giặc bằng trực thăng, nhưng còn lâu sự khôn lanh của họ mới bằng sự nhanh nhẹn của người Việt Nam và ... có lẽ chừng nào người Mỹ biết ăn trầu, thì họ mới có đủ được kinh nghiệm của chiến trường Việt Nam. Vì nếu lơ mơ không bốc lên kịp, thì chiếc trực thăng kia với một núi đạn 81 ly trong đó sẽ lãnh đủ trái đạn pháo vừa rồi.<br /><br />Tôi nhìn theo chiếc trực thăng đã mất hút ở cuối bìa rừng cao su, như hiểu ý, một người nằm gần nói với tôi:<br /><br />- Cứ nằm đây chờ, chút nữa hết pháo họ sẽ đến.<br /><br />Tôi hỏi lại:<br /><br />- Nhỡ đến mà nó pháo nữa thì sao?<br /><br />Anh ta thản nhiên:<br /><br />- Trúng thì rớt, không trúng thì bay đi.<br /><br />Sau câu nói này, tôi nhớ lại cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Nhàn thuộc Phi Đoàn CH47 của Sư Đoàn 3 Không Quân trước đây một tuần tại mặt trận An Lộc. Trong một phi vụ tiếp tế, tàu của Nhàn bị trúng phòng không, bạn bè bay theo bảo anh rời vòng chiến ngay và đáp ép buộc chờ trực thăng võ trang cứu. Nhưng anh đã trả lời:<br /><br />- Biết rồi, để thả hết hàng cho họ đã. Họ bị thiếu tiếp tế từ mấy ngày nay, không lẽ mình vượt bao nhiêu màn lưới phòng không mới vào được đây, mà bây giờ lại ra sao?<br /><br />Anh chỉ trả lời như thế rồi tiếp tục vào vòng yểm trợ. Khi số hàng còn lại trên tàu vừa thả được xong, thì cũng là lúc chiếc CH47 anh đã nằm gọn trong màn lưới phòng không. Thiếu Tá Mai là bạn của anh bay gần đó đã nghe được những lời cuối cùng của anh qua hệ thống vô tuyến:<span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)"> “Hàng thả hết rồi, nhưng tất cả hệ thống điều khiển trong phòng lái đã ngưng hoạt động. Bây giờ tao đáp ép buộc đây, tụi mày hãy theo tao cover thật kỹ và pick-up thật nhanh ... “</span>. Nhưng không còn kịp nữa, anh vừa nói xong thì chiếc trực thăng đã như một bó đuốc khổng lồ từ trời cao rơi xuống nổ tung trên mặt đất, và anh đã chết theo tàu ... Tôi và các chiến sĩ vẫn nằm trốn đạn và chờ trực thăng đến. Quanh đó, vài chiến xa T54 nằm chỏng trơ, vài chiếc khác nằm chúi đầu xuống những hố bom, phía sau tôi là rừng cao su trùng điệp. Trong phút chốc tàu bốc vội lên mây, mất hút ở cuối một khúc quanh của con lộ 13. Vài tràng đạn AK đuổi theo, mấy quả đạn pháo kích khác rớt quanh đó như xé gió phá rừng, những thân cây lại thi nhau gãy rôm rốp. Mấy thùng đạn vừa được đem xuống vẫn còn nằm trên quốc lộ. Một anh kéo tôi đi nơi khác:<br /><br />- Hãy tránh xa đống đạn này, đạn pháo kích mà nó rớt vào đây thì ... bỏ bu.<br /><br />Từ hướng Xa Cam, một đoàn người gồng gánh, bồng bế nhau chạy loạn về hướng chúng tôi. Tức thì mấy quả đạn pháo kích được câu đến từ Đồi Gió rớt vào giữa đám dân chạy loạn này, gây vô số người chết, vô số người bị thương. Có những người bị thương cách đây vài giờ lại bị thương nữa. Có những người sắp chết, muốn được chết cho rảnh tay người thân chạy nạn, thì bây giờ được chết. Trong số những người chết này, một cảnh tượng thật thương tâm đã xảy ra ngay trên bìa rừng cao su An Lộc. Một người mẹ bồng đứa con khoảng sáu tháng bị mảnh pháo phá vỡ khuôn ngực và bà ngã ra chết liền tại chỗ. Đứa nhỏ không chết, cũng không bị thương, nó bò trên bụng mẹ khóc thét lên trong sự hãi hùng. Khóc mệt, nó lại gục đầu vào ngực mẹ nó mà bú. Một người khác cũng dân chạy loạn đến bế nó ra, thì mặt mũi của đứa bé bê bết máu của mẹ nó và trong mồm nó cũng có máu, mà có lẽ nó tưởng đó là chất sữa nên đã hút vào. Một lúc sau đứa bé cũng chết luôn trên tay người bế nó.<br /><br />Một cảnh tượng khác mà tôi cũng không làm sao quên được. Một đứa bé gái khoảng13 tuổi mù hai mắt, gầy yếu xanh xao, cõng thằng anh nó khoảng 15 tuổi trên lưng, bị cụt một chân. Đứa nhỏ mù mắt cõng đứa lớn cụt chân. Đứa cụt chân ngồi trên lưng đứa mù mắt để chỉ đường mà chạy trốn Việt cộng. Trong xách tay tôi còn hai ổ bánh mì mua hồi sáng ở Lai Khê, tôi lấy đưa cả cho anh em nó. Trước đây tôi đã được đọc những câu in trên bích chương dán ở thành phố: <span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(153,0,0)">“... Pháo kích bừa bãi, giết hại dân lành, nhà cháy người chết, thù hận này biết đến bao giờ mới nguôi ngoai trong lòng người dân Việt ... “</span>. Dạo đó tôi đã nghĩ rằng những câu này chỉ là về phương diện chính trị thôi. Nghĩa là Việt cộng xuyên tạc mình thì mình xuyên tạc lại. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu đó là sự thật, một s<span style="COLOR: rgb(153,0,0); FONT-WEIGHT: bold">ự thật mà không thể đội trời chung với bọn người dã man đó được</span>, và tự nhiên trong lòng tôi thấy dâng lên những thù hận ngút ngàn. Thật tình mà nói, trước khi bước vào An Lộc, tôi đã thầm nghĩ: “Mình chỉ chết khi bị trúng đạn, chứ nếu đối diện gần thì trên ngực áo tôi có hai chữ Báo Chí “nó” không giết đâu mà sợ, cao lắm thì chỉ bắt sống là cùng. Nhưng bây giờ thì tôi không còn nghĩ như thế nữa. Trước mặt tôi, chung quanh tôi, những người dân vô tội đang thương vong la liệt. Tôi sờ tay vào hông, khẩu Colt vẫn cồm cộm. Tôi quyết định: “Nếu đêm nay còn phải ở đây mà rủi gặp bọn chúng, thì dù thế nào tôi cũng đẩy về hướng chúng 6 viên và còn lại là cho tôi, chứ nhất định không để bị bắt sống. Nghĩ đến đây, hình ảnh vợ con tôi tại trại gia binh lại hiện ra, tôi thấy nhói trong lòng.<br /><br />Từ xa có tiếng đập phần phật của trực thăng, rồi trong phút chốc 8 chiếc lượn sát những ngọn cao su và cũng bất thần đáp dài trên quốc lộ, trong khi đạn pháo kích của Việt cộng tiếp tục rải dài theo hai bên bìa đường. Các chiến sĩ đổ bộ thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh lẽ ra khi nhảy xuống thì họ di tản, nhưng họ đã đến phụ khiêng xác chết và người bị thương lên phi cơ xong mới đi. Tôi ngồi tựa lưng vào xích của một chiếc T54 bỏ hoang nhìn theo mấy chiếc trực thăng đang bốc vút về hướng Lai Khê mà trong đó có gần 100 người dân vô tội vừa chết, vừa bị thương, vừa kinh hoàng ... <span style="COLOR: rgb(153,0,0); FONT-WEIGHT: bold">Cộng sản Bắc Việt vừa sát hại xong dân lành vô tội bằng công cụ giết người của chúng</span>, thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến mang những người dân đó về nơi an toàn ... Từ hướng Chi Khu An Lộc, một chiếc Jeep mui trần chở gần 20 đồng bào tiến về hướng bãi đáp trực thăng. Tôi quá giang chiếc Jeep này vào Chi Khu và tại đây tôi được gặp Đại Úy Lê Văn Vẫn, Chi Khu Phó Chi Khu An Lộc. Đại Úy Vẫn cho biết ông là người ở đây lâu nhất (bốn đời Quận Trưởng đã thay phiên nhau) từ năm 1964. Và bây giờ ông nhất định ở đây chiến đấu đến hơi thở cuối cùng chứ không đi đâu hết. Ông kể tiếp:<br /><br />- Ngày mặt trận An Lộc mở màn có 6 chiếc trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân đến đáp vào Chi Khu để đưa gia đình của quân nhân tại đây rời An Lộc. Tôi chạy vào hầm trú ẩn nói với vợ tôi: “Có trực thăng đến, em mau đưa các con về Sài Gòn, ở đây nguy hiểm lắm. Khi nào êm, anh sẽ về đưa mẹ con em lên. Nhưng vợ tôi nhứt định không chịu và trả lời: “Mẹ con em về nơi an toàn, ở đây rủi anh chết thì mẹ con em sống với ai ? Em xin được ở lại đây cùng sống chết với anh”. Trong lúc đó vợ con của anh em quân nhân tại đây đều đã nhất loạt trả lời như thế, nên cuối cùng sáu chiếc trực thăng phải rời Chi Khu mà không có đàn bà trẻ con nào theo ... “<br /><br />Sau câu nói của Đại Úy Vẫn, tôi chợt nhớ lại gương liệt nữ Phạm Thị Thàng cách đây đã lâu. Chị Thàng là vợ của một chiến sĩ Nghĩa Quân. Chị và các con đều sống chung trong công sự chiến đấu của chồng trong làng. Một đêm nọ Việt cộng công đồn, chồng chị bị trúng đạn, chi thay chồng tung mấy chục trái lựu đạn vào đám Việt cộng khi chúng tấn công bằng biển người. Nhưng đến quả cuối cùng, bọn chúng quá gần nên chị đã chết chung với thêm mấy tên Việt cộng nữa bằng quả lựu đạn đó. Bây giờ vợ lính ở An Lộc cũng đã noi gương chị Thàng không chịu đi Sài Gòn ở lại tử thủ: sống chết với chồng con tại An Lộc. Đại Úy Vẫn tiếp:<br /><br />- Sáu chiếc trực thăng vừa bốc lên thì một chiếc bị trúng đạn và rớt ngay bên ngoài vòng đai Chi Khu rồi bốc cháy. Chúng tôi nhìn theo mà đã khóc lúc nào không hay. Anh em Không Quân đã vì sinh mạng gia đình chúng tôi mà phải chết, tôi kính trọng và nhớ ơn nghĩa cử của quý anh em đó lắm. Cuối cùng tôi quyết định cho một trung đội mở đường máu ra cứu phi hành đoàn, nhưng cũng không kịp. Khi trung đội trở vào thì ... chỉ còn phân nửa quân số, bởi lúc bấy giờ chiến xa Việt cộng quá nhiều. Rồi hai hôm sau, trại gia binh của chúng tôi tại đây cũng bị pháo kích nặng, hơn tám chục phần trăm gia đình của quân nhân chết và bị thương ...<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Gà trống nuôi con</span><br /><br />Trong khi ngồi tiếp chuyện với tôi tại một căn hầm dã chiến được đào sâu dưới mặt đất, trước mặt tôi là Đại Úy Vẫn, quanh đó khoảng năm, bảy chiến sĩ mà mỗi người đang có vài em bé quấn qúit bên cạnh. Đại Úy Vẫn xoa đầu một bé gái khoảng 4 tuổi:<br /><br />- Tôi có năm đứa, bây giờ chỉ còn mình nó, anh chị nó chết hết rồi, má nó cũng chết, ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại nó cũng chết trong trận pháo kích đó...<br /><br />Ông chỉ những đứa bé đang đứng cạnh mấy chiến sĩ quanh ông:<br /><br />- Đấy anh xem, bây giờ ở đây cái cảnh gà trống nuôi con rất nhiều. Cha mẹ và vợ con chúng tôi đã vì chúng tôi mà chết tại đây, nên chúng tôi đã thề tử thủ tại đây đến hơi thở cuối cùng, dù có được đổi về Sài Gòn cũng không đi. Nếu một ngày nào đó mà anh gặp lại một trong những khuôn mặt của chúng tôi tại đây trên một địa danh an toàn nào đó không phải là An Lộc mà lúc đó chúng tôi còn tại ngũ thì ... anh có quyền giết chúng tôi, nếu không phải là Lệnh hay Chỉ Thị cho chúng tôi rời An Lộc. Hôm nay anh là người Báo Chí của Không Quân đầu tiên đến đây, tôi xin được đại diện các chiến sĩ tử thủ An Lộc gửi đến anh em Không Quân, nhất là những phi hành đoàn đã lái tàu bay vào Chi Khu với ý định đưa vợ con chúng tôi đến nơi an toàn, những lời thành thật muôn đời nhớ ơn của chúng tôi, mặc dù vợ con chúng tôi không đi và ... đã chết.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Những chiếc vòng tử thủ</span><br /><br />Nói đến đây Đại Úy Vẫn gỡ trong tay của ông ta ra 3 chiếc vòng trao cho tôi:<br /><br />- Tất cả những chiến sĩ tử thủ tại đây mỗi người đều có mang ba chiếc vòng này và chúng tôi đã đặt tên là ... vòng AN LỘC TỬ THỦ. Nay tôi xin tặng anh để làm kỷ niệm ... Anh là người thứ hai, sau Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa mà chúng tôi tặng ba vòng này.<br /><br />Một Thiếu Úy ngồi gần đó nhìn Đại Úy Vẫn rồi nói với tôi:<br /><br />- Anh có viết bài thì nhớ nói là Thiếu Tá, vì ổng lên lon gần hai tháng nay, nhưng từ đó đến nay ở đây không ai bán “lon” mà mua nên ... ông Vẫn “vẫn” mang “lon cũ”.<br /><br />Tôi nhìn Đại Úy Vẫn như thầm hỏi lại: “Có đúng thế không ?“. Thiếu Tá Vẫn gật đầu:<br /><br />- Đúng vậy.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">68 Ngày tử thủ An Lộc không lãnh lương</span><br /><br />Cũng tại đây, tôi gặp một chiến sĩ còn rất trẻ, anh ta tâm sự với tôi như sau:<br /><br />- Em là Binh Nhất Lê Nhâm Thình, quân nhân Không Quân, thuộc Sư Đoàn 2 Không Quân tại Phù Cát, kỹ thuật phi cơ loại C 7A. Về phép thăm nhà hôm 28.3.1972 rồi bị kẹt lại đây đến bây giờ. Trọn gia đình em bị pháo kích chết hết rồi, chỉ còn lại một người anh đang tại ngũ tại An Lộc này thôi. Đã nhiều lần em muốn ra đón tàu để về lại với Không Quân, nhưng còn ngại sẽ bị rắc rối về an ninh nên chưa dám. Tính đến nay là 68 ngày, trong suốt thời gian này tại đây em đã chiến đấu như một chiến sĩ Bộ Binh thật sự, nhưng chỉ ăn nhờ cơm gạo sấy của anh em ở đây thôi chứ không có lãnh lương. Em có lấy được một AK của tên Việt cộng mà em đã bắn chết nó. Hôm nào về Sài Gòn, nhờ anh trình lên Bộ Tư Lệnh Không Quân, nếu không bị rắc rối, anh viết thư về đây, KBC 6995, lúc đó em sẽ bằng đủ mọi cách về trình diện đơn vị ...<br /><br />Buổi chiều, tôi có dịp vào thị trấn An Lộc. Phố xá thật tiêu điều, những căn nhà không người trơ vách, những tuyến kẽm gai quanh Chi Khu cháy cong queo. Đó đây một vài xác trực thăng cháy xụm, những chiến xa đứt xích nằm chỏng chơ như quái vật không đầu, vài chiếc khác chúi mũi xuống những hố bom, một chiếc dù màu trắng đỏ phất phơ theo chiều gió trên ngọn cao su. Những chiếc dù tải hàng còn vương vãi theo hai bên quốc lộ, trên mặt con lộ 13 những hố đạn, hố bom sâu hoắm. Những vỏ đạn đủ cỡ, đủ loại nằm ngỗn ngang, những thân cây cao su cháy đen ngã gục. Trong vòng đai Chi Khu, một bức tường dầy và cao lổ chổ đầy vết đạn lớn nhỏ mà phía trên còn đọc được ba chữ “QUẬN AN LỘC“. Gần đó, một vách tường khác có dấu hồng thập tự với ba chữ “TRẠM CỨU THƯƠNG“, phía sau là một trường tiểu học bị tróc nóc. Xa hơn một chút là trại gia binh An Lộc cũng đã điêu tàn. Bước ra phía ngoài, một xe Honda bốn bánh nằm lật ngang, bên hông có cẩn thận ghi hai chữ thật lớn “XE NHÀ” bằng sơn màu trắng và ... một chữ “BINH ” viết bằng đất đỏ An Lộc. Tôi thầm cười, trạm cứu thương, trại gia binh, nhà thờ, chùa chiền và đàn bà trẻ thơ vô tội còn phải lãnh đạn pháo kích của “quân giải phóng”, thì ... “Xe Nhà Binh” sức mấy mà thoát khỏi, sao không đề là ... “XE CỦA QUÂN GIẢI PHÓNG“. Tôi đâm ra phục lối chơi chữ hay hay của người nào đó đã viết thêm chữ “BINH“ sau hai chữ “XE NHÀ“ này.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Châu chấu đá voi</span><br /><br />Cách cổng vào Chi Khu An Lộc khoảng hai cây số, một chiếc xe cần cẩu của tư nhân màu vàng nằm chắn ngang một nửa mặt con lộ 13, một chiếc khác nằm trơ bánh lên trời dưới mé lộ. Được biết, trong những ngày đầu sôi động của An Lộc, khổ chủ hai chiếc xe trên đã tình nguyện đem ra cho “đâu đít lại với nhau” nằm chắn ngang lộ, với ý định không cho chiến xa của Việt cộng vào thị trấn An Lộc thân yêu của họ. Vì họ đã nghĩ rằng, một khi mà chiến xa của Việt cộng vào được trong thị trấn thì dù cho xe cần cẩu của họ có để trong nhà cũng không còn. Nhưng ... kết quả T54 của Việt cộng là voi, mà xe cần cẩu của họ là châu chấu!<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Thoát chết nhờ lối tuyên truyền láo của Việt cộng</span><br /><br />Gần vòng đai Chi Khu vài chục thước, mấy chiếc T54 nằm quay đầu ra bất động. Hỏi, thì một chiến sĩ cho biết như sau:<br /><br />- Dạo đó, khi An Lộc bị thất thủ, hàng chục chiến xa Việt Cộng đã phây phây đi vào và các tay xạ thủ cũng đã phây phây ngồi hẳn phía trên xe. Chúng tôi lúc đó chỉ còn hơn đại đội, nấp dưới những hầm hố, không dám bắn trước. Nhưng chúng tôi lấy làm lạ, không hiểu tại sao những chiến xa này không khai hỏa mà chỉ vào đậu đó, xong chạy vòng vòng, thật chậm như có ý tìm kiếm rồi quay ra và ... khi chúng quay đầu xe ra, bọn tôi xách M72 chạy theo hạ hết. Thứ này mà bắn vào đứt xích là nằm liền. Các trưởng xa và xạ thủ thoát khỏi xe cũng bị chúng tôi hạ luôn, có vài tên bị chúng tôi bắt làm tù binh và chúng cho biết: Sở dĩ khi chúng đưa xe vào tận đây mà không khai hỏa, vì trước khi vào đây, cấp chỉ huy đã cho chúng biết, hiện An Lộc hoàn toàn do quân giải phóng kiểm soát và ... làm chủ tình hình, nên chúng vào và cứ tự nhiên ngồi trên nóc xe như “người quân nhân trở về đơn vị” và chạy vòng vòng là có ý đi tìm “đồng chí”. Đến khi tìm mà không gặp được đồng chí nào hết nên mới lừng lững quay ra, và khi quay ra thì mỗi chiếc bị lãnh vài viên M72 từ mặt hậu rồi đứt xích luôn không thể quay đầu lại. Bởi thế mà anh thấy những chiến xa quanh vòng đai này phần đông đều quay đầu ra. Còn những chiếc khác xa xa thì lại quay đầu vào, những chiếc này hầu hết là lãnh bom và rocket từ phi cơ.<br /><br />Nghe xong câu chuyện, tôi thầm nghĩ: “Bọn cộng sản Bắc Việt ngoài lối thí quân, nướng quân bằng những cuộc tấn công biển người ồ ạt của chúng, mặc cho hỏa lực khủng khiếp từ phi cơ ta “làm cỏ”, nay chúng có thêm một lối “nướng quân” bằng cách tuyên truyền láo với quân sĩ thuộc quyền. Bởi nếu chúng không nói láo với quân sĩ của chúng thì anh lính này đâu còn sống đến ngày nay để kể lại giai thoại “chiến xa Việt cộng phây phây vào sào huyệt ta đi tìm “đồng chí”, để rồi khi quay đầu ra vừa khỏi vòng đai, thì ... nằm đây luôn đến bây giờ. Trong lúc vui miệng anh lại kể cho tôi nghe thêm một vài chuyện khó tin, nhưng tại đây lại ... có thật.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Trong thời gian tử thủ bệnh táo bón rất quý</span><br /><br />Có những lúc bên ngoài nó pháo rát quá, hầm trú ẩn thì nhỏ, mà anh em lại quá đông, đôi khi muốn đi cầu lại ngại lãnh đạn, nên chúng tôi cứ ... “cố nín, cố nín”. Đến khi không thể nín được mà bên ngoài vẫn còn pháo, thì dùng ... lớp trong của nón sắt làm cái “bô”. Xong, đứng ở miệng hầm liệng ra ngoài. Có người chỉ mới hai ngày đã liệng luôn cả hai lớp của nón sắt, nên ở đây mà trong thời gian đó ai có được cái bệnh táo bón là quý như vàng, thảnh thơi lắm. Mà tóm lại trong thời gian đó, người nào có táo bón mấy đi nữa thì cũng phải có một lần “liệng nón sắt”.<br /><br />Một giai thoại khác: “TẮM BẰNG MỒ HÔI“, vì tại đây nước rất quý, quý hơn vàng, có khi phải dùng đến nước tiểu để làm “nở cơm sấy” khi ăn. Có nhiều người chịu không nổi phải bịt cả hai lổ mũi, nhai sơ rồi nuốt vội như cố “tống cơm vào bao tử” cho xong để có sức mà ... tử thủ nhưng không dám ăn nhiều, vì nếu ăn nhiều thì trời sẽ không cho được cái bệnh táo bón. Bởi nước quý như vàng, nên trong thời gian đó lúc nào thấy êm, ai muốn tắm thì cứ cử tạ bằng cách bưng một thùng đạn nặng trịch đưa lên, đưa xuống cho đổ mồ hôi. Xong cởi ngay quần áo ra ... ung dung ngồi kỳ đất trên da nở ra và rất dễ ... “TẮM BẰNG MỒ HÔI“.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Phạm Phong Dinh</span><br /></div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-11100590862221526022010-01-30T10:54:00.002+11:002010-01-30T10:59:55.564+11:00Kỷ Yếu Khóa 21 TVBQGVN<center><br /><object width="500" height="400"><param name="allowfullscreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><param name="movie" value="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=4669012&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1"><embed src="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=4669012&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" width="500" height="400"></embed></object><p><a href="http://vimeo.com/4669012">Kỷ Yếu Khóa 21 TVBQGVN (1/4)</a> from <a href="http://vimeo.com/user1167811">tvh23</a> on <a href="http://vimeo.com/">Vimeo</a>.</p><br /><br /><object width="500" height="400"><param name="allowfullscreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><param name="movie" value="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=4924122&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1"><embed src="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=4924122&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" width="500" height="400"></embed></object><p><a href="http://vimeo.com/4924122">Kỷ Yếu Khóa 21 TVBQGVN (2/4)</a> from <a href="http://vimeo.com/user1167811">tvh23</a> on <a href="http://vimeo.com/">Vimeo</a>.</p><br /><br /><object width="500" height="400"><param name="allowfullscreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><param name="movie" value="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=5077202&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1"><embed src="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=5077202&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" width="500" height="400"></embed></object><p><a href="http://vimeo.com/5077202">Kỷ Yếu Khóa 21 TVBQGVN (3/4)</a> from <a href="http://vimeo.com/user1167811">tvh23</a> on <a href="http://vimeo.com/">Vimeo</a>.</p><br /><br /><object width="500" height="400"><param name="allowfullscreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><param name="movie" value="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=4795199&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1"><embed src="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=4795199&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" width="500" height="400"></embed></object><p><a href="http://vimeo.com/4795199">Kỷ Yếu Khóa 21 TVBQGVN (4/4)</a> from <a href="http://vimeo.com/user1167811">tvh23</a> on <a href="http://vimeo.com/">Vimeo</a>.</p><br /><br /><br /></center>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-54255923026412972652010-01-30T10:44:00.000+11:002010-01-30T10:52:47.678+11:00Chân Dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa<center><br /><object width="500" height="400"><param name="allowfullscreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><param name="movie" value="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=5904479&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1"><embed src="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=5904479&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" height="400" width="500"></embed></object><p><a href="http://vimeo.com/5904479">Chân Dung Người Lính VNCH (1)</a> from <a href="http://vimeo.com/user1167811">tvh23</a> on <a href="http://vimeo.com/">Vimeo</a>.</p><br /><br /><object width="500" height="400"><param name="allowfullscreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><param name="movie" value="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=6077836&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1"><embed src="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=6077836&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" height="400" width="500"></embed></object><p><a href="http://vimeo.com/6077836">Chân Dung Người Lính VNCH (2)</a> from <a href="http://vimeo.com/user1167811">tvh23</a> on <a href="http://vimeo.com/">Vimeo</a>.</p><br /><br /><object width="500" height="400"><param name="allowfullscreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><param name="movie" value="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=6157099&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1"><embed src="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=6157099&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" height="400" width="500"></embed></object><p><a href="http://vimeo.com/6157099">Chân Dung Người Lính VNCH (3)</a> from <a href="http://vimeo.com/user1167811">tvh23</a> on <a href="http://vimeo.com/">Vimeo</a>.</p><br /><br /><object width="500" height="400"><param name="allowfullscreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><param name="movie" value="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=6386555&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1"><embed src="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=6386555&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" height="400" width="500"></embed></object><p><a href="http://vimeo.com/6386555">Chân Dung Người Lính VNCH (4)</a> from <a href="http://vimeo.com/user1167811">tvh23</a> on <a href="http://vimeo.com/">Vimeo</a>.</p><br /></center>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-60094903931342427572010-01-30T10:34:00.002+11:002010-01-30T10:44:01.092+11:00Phỏng Vấn Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu<center><br /><object width="500" height="400"><param name="allowfullscreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><param name="movie" value="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=8534055&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1"><embed src="http://vimeo.com/moogaloop.swf?clip_id=8534055&server=vimeo.com&show_title=1&show_byline=1&show_portrait=0&color=&fullscreen=1" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" width="500" height="400"></embed></object><p><a href="http://vimeo.com/8534055">Phỏng vấn Tổng Thống NGUYỄN VĂN THIỆU</a> from <a href="http://vimeo.com/user1167811">tvh23</a> on <a href="http://vimeo.com/">Vimeo</a>.</p><br /></center>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-4270740598834678892010-01-30T05:37:00.002+11:002010-01-30T05:41:56.791+11:00Nén Hương Cho Những Biệt Kích Không Có Ngày Về<center><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhmfmjI3MXR1jACSqtBE1Wfc89L46-oLPJR0mRgDsw5MH2zsmgua_GyYIFMa_I6y0zFmZZax417ZMNyv2FUxNjVK0gV6WBxam63AMyhvWRQzF3AZLJDRIx0vttkUyl-pmPE3kZ83u8lq2w/s1600-h/guomthiengaiquoc.jpg"><img style="WIDTH: 416px; HEIGHT: 416px; CURSOR: hand" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432232996097152738" border="0" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhmfmjI3MXR1jACSqtBE1Wfc89L46-oLPJR0mRgDsw5MH2zsmgua_GyYIFMa_I6y0zFmZZax417ZMNyv2FUxNjVK0gV6WBxam63AMyhvWRQzF3AZLJDRIx0vttkUyl-pmPE3kZ83u8lq2w/s400/guomthiengaiquoc.jpg" /></a></center><br /><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify"><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Bài viết dưới đây của Ông Lâm Lễ Trinh thâu thập những dữ kiện của những tài liệu có cái nhìn không thiện cảm và xu hướng một chiều của một vài cá nhân Mỹ như tài liệu của ông Sedwich Tourison chỉ có khuynh hướng để hoàn tất vụ kiện chính phủ hoa kỳ về Biệt Kích Sở Bắc . Cũng như các tác phẩm "The Secret War Against Hanoi của Richard H. Schultz Jr đã được Cộng Sản Việt Nam phiên dịch tài liệu để tuyên truyền trên báo chí và website.</span><br /></div><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify"><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">Thời Ðệ nhị Thế chiến. Vài trò của OSS</span><br /><br /></div><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify">Office of Strategic Services, tiền thân của CIA, được thành lập bởi quyết định ngày 13.6.1942 của Tổng thống Franklin Roosevelt. Bộ Tham mưu Liên quân không mấy hưởng ứng mặc dù nắm quyền kiểm soát cơ quan. William Donovan là Giám đốc đầu tiên. OSS có trách vụ thực hiện các công tác bán quân sự mật như tình báo , chiến tranh tâm lý , hổ trợ các phong trào chống đối địa phương, tổ chức và huấn luyện quân du kích tại những xứ Âu châu và Á châu bị Ðức Quốc Xã và Nhựt chiếm đóng. Hồ Chí Minh bắt liên lạc được với nhóm OSS ở Côn Minh và kết thân với Thiếu tá Archemides L.A. Patti mà nhiệm vụ chính là cứu các tù binh của phe Ðồng minh. Patti chuyển cho TT Truman một bức thơ của Hồ (không được trả lời), giúp Hồ thảo bản Tuyên ngôn Ðộc lập, cung cấp võ khí và giúp huấn luyện một số cán bộ Việt Minh. Hồ cũng tiếp xúc với Trung tá OSS Peter Dewey và tướng Không quân Claire Chennault, người sáng lập toán Cọp Bay, Flying Tigers . Từ OSS xuất thân những chuyên gia tình báo gạo cội HK như Edward Lansdale, William Colby, John K. Singlaub, Lou Conein.<br /></div><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify"><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">CIA thay thế OSS, hoạt động tại Việt Nam (1954- 1960)</span><br /><br />Khi Thế chiến chấm dứt, Harry Truman giải tán OSS. Luật An ninh Qu6c gia năm 1947 thành lập cơ quan CIA, Central Intelligence Agency. Hai quyết định số NSC 4 và 4A của Tổng thống giao cho CIA điều hành nhiều vấn đề thuộc an ninh quốc ngoại.<br /><br />Thập niên 40 và 50 là thời kỳ "vàng son" của CIA. Ðúng vậy, ở Phi Luật tân, Ðại tá Lansdale thành công giúp Ramon Magsaysay dẹp quân phiến lọan Huks và đắc cử Tổng thống năm 1953. Tại Iran và Guatemala, CIA giựt giây cuộc lật đổ hai nhà độc tài Mohammed Mossadegh (1953) và Jacobo Guzman (1954). Tuy nhiên CIA thất bại âm mưu gây rối ở Estonia, Latvia, Lithuania, Ba Lan, Ukraine và Albania thuộc khối Xô Viết.<br /><br />Các công tác chống Bắc Việt bắt đầu năm 1954, sau ngày Hiệp định Genève chia đôi tạm thời VN tại vĩ tuyến 17 để chuẩn bị bầu cử tự do năm 1956. HK cũng như Miền Nam không ký vào văn kiện. Dân hai miền Nam-Bắc có 300 ngày để định cư. Lansdale (được TT Eisenhower phái qua VN hoạt động sau ngày Ðiện Biên Phủ thất thủ 7.5.1954) thừa cơ hội cho đổ bộ ở ven biển Bắc Việt vài nhóm biệt kích qua những cuộc hành quân bí mật marops, maritime operations. Hồ Chí Minh ra lệnh cho 10.000 cán bộ ở lại Miền Nam và bũa rộng tại đây một mạng lưới gián điệp.<br /><br />Năm 1956, CIA giúp tổ chức Nhóm Quan sát bán quân sự đầu tiên, the First Observation Group nằm ngoài hệ thống chỉ huy của Quân đội VNCH và do TT Diệm điều động,. Nhóm này công tác bên kia vĩ tuyến 17 để lấy tin và phá huỷ hệ thống liên lạc của địch. Năm 1958, có một thỏa ước Diệm-CIA để đưa biệt kích độät nhập Bắc Việt. Ngày 28.1.1961, trả lời câu hỏi của TT Kennedy, Giám đốc CIA Allan Dulles cho biết kết quả dưới mức mong đợi. Theo phân tích gia Herbert Weisshart, trong khối CS - nếu sánh với Nga sô, Trung quốc, Ðông Ðức và Bắc Hàn. được CIA mệnh danh quốc gia "phản gián/vô thừa nhận, counterintelligence states, denied states" - thì Bắc Việt là nơi khó thực hiện nhất tâm lý chiến và công tác bí mật. Tình trạng này có nhiều lý do: Tại BV không thể lập khu kháng chiến maquis, kiểu Pháp thời chiến, do bên ngoài tiếp tế vì dân chúng bị nhồi sọ và hàng ngủ hoá triệt để. Mặt khác, bộ máy công an CS kềm kẹp sít sao thành thị, thôn quê đến hải phận; biên giới bị khoá chặt và không có sự giao thương, trao đổi tin tức, du lịch giữa hai miền Nam-Bắc. Bởi thế, CIA dồn 90% nổ lực vào Miền Nam. Ðã có một lúc Lansdale đề nghị tổ chức tại Bắc Việt một phong trào kháng chiến chống cộng để tạo rối loạn như ở Hung Gia Lợi năm 1956. Bộ Ngoại giao và CIA bác ý kiến này, cho là quá bạo, có thể gây đụng độ với Nga, Tàu và khai mào thế chiến.<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">Tổng thống Kennedy khởi đầu chiến tranh bất quy ước (1961)</span><br /><br />Trong phiên họp 28.1.1961 tại Hội đồng An ninh Quốc gia, J.F Kennedy – vưà đắc cử Tổng thống - tuyên bố ông muốn những cuộc hành quân biệt kích được tổ chức bên trong Bắc Việt., mở màn một giai đọạn "đấu tranh khó hôn chiến tranh (quy ước) trên nhiều phương diện ...", bởi thế "... cần nghiên cứu những gì Mao Trạch Ðông và Che Guevara đã viết về chiến tranh du kích." Ngày 27.4.1961, tai Hội đồng, tướng Edward G. Lansdale, bạn thân của TT Ngô Ðình Diệm, thuyết trình rằng Việt cộng đang thành công gia tăng khủng bố và du kích tại Miền Nam VN với chủ đích lật đổ chế độ hiện lung lay. Theo lời kể lại của Richard Helms – sau này trở thành Giám đốc CIA – Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara, hai anh em Bundy, Walt Rostow và tướøng Maxwell Taylor ủng hộ hăng hái ý kiến của Tổng thống nhưng không có kinh nghiệm nhiều về vấn đề.<br /><br />TT Kennedy chỉ định một ban nghiên cứu do Roswell Gilpatric,Thứ trưởng Quốc phòng, chủ tọa và gồm có Lansdale, Rostow,Alexis Johnson và Desmond Fitzgerald, để thảo một "Chương trình Hành động cho VN, Program of Action for Vietnam". Phúc trình, nạp đầu tháng 5.1961, cho biết lối 58% lãnh thổ Miền Nam bị CS kềm toả. Phúc trình đề nghị chấn chỉnh gấp hệ thống an ninh và phát triển trong xứ, kèm theo một kế hoạch xâm nhập bí mật Miền Bắc. Ngày 11.5.1961, TT Kennedy chấp nhận và nóí rỏ trong quyết định hành pháp NSAM 52 "Mục tiêu của HK là .ngăn CS thôn tính Miền Nam; dựng tại đây một xã hội dân chủ vững vàng bằng cách áp dụng cấp bách một loạt biện pháp mật về mặt quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lý<br /><br />"Cuộc chiến bất quy ước chống Bắc Việt trải qua hai giai đoạn từ Kennedy cho đến Nixon.<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">A. Giai đọan 1961 -1962</span><br /><br />Luật sư William Colby, tốt nghiệp Princeton, nói rành tiếng Pháp, là trưởng đoàn CIA tại Saigon từ 1959. Ông chủ trương "gia tăng sự bất ổn tại Bắc Việt để lập thăng bằng với tình trạng thiếu an ninh mà cộng sản tạo ở Miền Nam." Gilbert Layton điều khiển ngành đặc công. Vì phương tiện giới hạn cho nên CIA chỉ đưa được trên vĩ tuyến 17, bằng đường bộ, đường biển và thả dù, lối 30 biệt kích tổ chức thành toán (teams), mỗi toán 6 người, và một số gián điệp viên hoạt động đơn độc (singletons). Lực lượng đặc công gồm đa số người Bắc di cư vào Nam sau Hiệp định Genève 1954. Thoạt tiên, họ có trách vụ " tổ chức trên đất địch một căn cứ du kích" nhưng về sau, vào đầu năm 1962, vì vấp phải khó khăn thực tế, Colby phải đổi hướng công tác của họ thành tình báo, phá hoại, chiến tranh tâm lý và rải truyền đơn "Gươm Thiêng Ái Quốc". Dù đổi nhứ thế, kế hoạch vẫn thất bại nặng , theo phúc trình của Ủy ban 303, The 303 Committee, được Toà Bạch ốc đặt ra để trắc lượng chiến dịch: Gần tất cả các biệt kích vượt tuyến bị CS bắt giử, tra tấn, thủ tiêu hay buộc cọng tác với chúng. Ủy ban điều tra nêu ra nhiều lý do thất bại: Hoa kỳ giao phó cho Chính quyền Saigon tuyển mộ trực tiếp các biệt kích nên không kiểm soát được về vấn đề nội gián. Một khi lọt vào Bắc Việt họ không liên lạc dược với nhau và bị dân địa phương nhận diện mau chóng; CS gài tình báo vào phiá đối phương. Phương cách thả dù các đặc công mà không chuẩn bị cho họ một cứ điểm đổ bộ an toàn để họat động trong lòng địch – The Blind Drop concept – tỏ ra tai hại. Theo lời kể lại của cựu Thiếu tá biệt kích Trần Khắc Kính, hiện ngụ tại Californie, đêm 2.6.1961, Trung tá không quân Nguyễn Cao kỳ lái chiếc máy bay C47 bay ra Bắc Thái thả dù toán Castor.<br /><br />Tai hại nhất là Averell Harriman, "thầy dùi" của TT Kennedy, vận động để ba phe Lào (Quốc gia-Cộng sản -Pathet) , Nga sô và Bắc Việt chấp nhận trung lập hoá xứ Lào tại Hội nghị Genève. Theo Harriman, giải pháp trung lập hoá ít nguy hiểm hơn chọc tức Bắc kinh bằng cách tấn công trực tiếp Bắc Việt. Sau ngày ký Hiệp ước 6.7.1962, Mỹ rút hết quân. Hànội rút tượng trưng ...40 cán bộ (!)ä và gài lại 10.000 du kích ở Thượng Lào. Dùng Lào làm bàn đạp, CSVN gấp mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh (khai thông từ thập niên 50) để ào ạt xua quân vào Nam dưới mũi của Ủy ban Kiểm soát Quốc tế. Chỉ trong tháng 6.1962 mà thôi, Hànội đưa được 1.500 lính chính quy qua ngã Lào và Miên. Thế quân sự nghiêng hẳn có lợi về phiá Bắc Việt.<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">B. Sau 1962: Ngũ Giác Ðài thay thế CIA</span><br /><br />Cuối 1961, các phúc trình báo động của Ban Thẩm lượng Tình Báo Quốc gia, National Intelligencve Estimate (hay NIE) thúc Kennedy dứt khoát chấm dứt công tác bán quân sự của CIA ở Bắc Việt và chuyển trách nhiệm qua Ngủ Giác Ðài. Sự thất bại đổ bộ tại Vịnh Con Heo, Bay of Pigs Cuba, ngày 28.6.1961 để mưu lật đổ Fidel Castro, càng chứng rỏ CIA bất tài. Tháng bảy 1962, McNamara triệu tập đại diện của Bộ Quốc phòng, Ban chỉ huy Thái Bình Dương, CIA, Bộ Ngoại giao và cơ quan MACV tại Honolulu nghiên cứu kế họach Operation Switchback. Tướng Harkins, xếp MACV – con gà nòi của Maxwell Taylor tại Sàigòn - tỏ ra rất lạc quan mặc dù cuối 1962, 300 du kích Việt cộng kháng cự thành công tại Ấp Bắc, Ðồng Tháp Mười, với Sư đoàn 7 Bộ binh của VNCH. Báo chí và công luận HK xao xuyến mạnh về trận đánh này.<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">TT Johnson cho thành lập SOG (1964) . Kế họach OPLAN 34A</span><br /><br />Vì hệ thống biệt kích trên vĩ tuyến 17 do CIA sắp xếp nên cần có một giai đọan chuyển tiếp, CIA và Quân đội cọng tác. Giai đọan này kéo lằng nhằng cho đến 1964. Ngày 24.1.1964, Bộ Tư lệnh MACV tại Sàigòn ra công văn thành lập cơ quan Nghiên cứu và Quan sát SOG, để thi hành kế hoạch Operation Plan trên đất Bắc Việt. OPLAN 34A được TT Johnson chấp thuận, 4 ngày sau vụ ám sát Kennedy, chiếu đề nghị của McCone ,Mc Namara, Rusk, Bundy. và tướng Krulak. Kế hoạch này – do Partain, Woolard, McLane và Kingston liên tiếp phụ trách - gồm có 72 lọai biện pháp để thực hiện trong 12 tháng, nhằm 2,062 mục tiêu. Về sau, Giám đốc CIA William Colby có nhắc lại: "Lúc đó, tôi đã lưu ý McNamara các chiến dịch này không thể thành công. Quan điểm của phía Quân đội (HK) là CIA hành động quá ít, quá chậm và không đi sâu được vào khối dân chúng ở Bắc Việt. Ðây là McNamara cổ điển: Các con số trả lời cho tất cả, Numbers are answers to everything! Ông ta tin rằng chỉ cần gia tăng ào ạt những cố gắng hoạt động bí mật thì sẽ gây rối loạn bên trong Bắc Việt và có thể buộc Hồ Chí Minh ngưng ủng hộ kháng chiến ở Miền Nam!" (đọc "Secret War" trang 36):<br /><br />Kế hoạch OP 34 tổ chức bốn toán biệt kích mang bí danh Bell, Remus, Tourbillon và Easy, tổng số gồm lối 30 người . Toán thứ năm, Europa, được CIA đưa ra Bắc vào tháng hai 1962, đã ngưng liên lạc bằng ra-dô và coi như mất luôn. Ngoài ra, CIA còn xử dụng một gián điệp viên có bí danh Ares. CIA cũng trao lại cho SOG trại Long Thành đang huấn luyện gần 169 cán bộ và một vài trụ sở ở trung tâm Sàigòn. McNamara và Hoa Thịnh Ðốn hối thúc SOG bắt tay vào việc. Từ tháng 4.1964 cho đến tháng 10.1967, gần 250 biệt kích chia thành 30 toán, được gài thêm vào Bắc Việt. Nếu cộng với số người của CIA họat động sẵn thì tổng số lên đến 500. Cuối 1967, có tất cả 7 toán đặc công: Remus, Tourbillon, Easy, Eagle, Hadley, Red Dragon, Romeo, và một gián điệp mang tên Ares. Năm 1968, cơ quan DIA, Defense Intelligence Agency, trong đó có cả đại diện CIA, tổng xét thành quả và kết luận bi quan rằng phía địch, trong gần bảy năm, chẳng những phá vỡ được các toán nóí trên mà còn xử dụng họ chống lại Miền Nam dưới nhiều hình thức (phản gián, thông tin xuyên tạc, phỉnh gạt ....).<br /><br />Các toán đặc nhiệm được đưa ra Bắc Việt vào những lúc khác nhau, không hoạt động chung một chỗ, đảm nhận công tác riêng biệt và không liên lạc với nhau vì cần bảo mật tối đa: Toán Tourbillon, tại vùng Tây Bắc từ tháng 5.1962, để phá hoại và lấy tin – Toán Easy tại Sơn La từ tháng 8.1963, để liên lạc với sắc dân Mèo-Thái, tổ chức họ chống chính phủ – Toán Remus, trong vùng Ðiện Biên Phủ, từ tháng tư 1962, để thiết lập căn cứ và làm tình báo – Toán Eagle, gần biên giới Hoa Việt, vào tháng 6.1964, để tìm cách phá hoại hai con đường số 1 và 4, thiết lộ Nam Quan và sân máy bay Mai Pha – Toán Romeo, ở phía Bắc khu phi chiến DMZ, từ tháng 11.1965, để theo dõi các đoàn quân xa trên quốc lộ 103 – Toán Haddley, cũng ở phiá Bắc DMZ, để quan sát sự di chuyển của địch trên quốc lộ 8 nối liền với các trục giao thông số 15, 81, 12 và 121 dẫn sang Lào. – Sau hết, toán Red Dragon, từ tháng 9.1967, để hoạt động phá hoại và thông tin trong hai tỉnh Lào Cai và Yên bái.<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">Giai đoạn Nixon. Hoa kỳ rút quân. Kế hoạch OP 35 chấm dứt (30.4.1972)</span><br /><br />Ðầu năm 1969, TT Nixon nói với Bộ Tham mưu: "Tôi sẽ chấm dứt chiến tranh. Mau chóngï." Ông gởi thông điệp cho Hànội đề nghị BV và HK đồng rút binh khỏi Miền Nam. Ðể gây áp lực, Nixon cho thả bom các đặc khu CSVN tại Miên. Hànội không nao núng, xua thêm quân vào dưới vĩ tuyến 17 và tuyên bố sẽ kiên trì đàm phán ở Hội nghị Paris "until the chairs rot, cho đến khi ghế mục!" Nixon ra lệnh cho Kissinger nghiên cứu trả đũa bằng cách phong tỏa các hải cảng địch và gia tăng oanh tạc BV. Nhưng Kissinger lại đề nghị "việt nam hoá" chiến tranh. (còn gọi là jaunissement, yellowing the war). Tháng mười 1968, chuyên gia Anh chống du kích Sir Robert Thompson – từng thành công dẹp lọan tại Mã Lai trong thập niên 50 và đã giữ vai trò cố vấn ở VN từ 1961 đến 1965 theo lời mời của Kennedy - đưa ra giải pháp này và cho biết Miền Nam, với một triệu quân tại ngũ, có thể, trong vòng hai năm, tái lập hoà bình nếu Mỹ tích cực giúp Chính phủ Sàigòn về vũ khí và kinh tế. Theo Thompson, chi phí viện trợ này vẫn còn rất rẻ vì dưới thời Truman, Mỹ đã xài tới 150 tỷ đô la. Trên thực tế, đây chỉ là một giấc mơ vì thời hạn hai năm quá ngắn. Hơn nửa, năm 1970, Nixon cho rút 150,000 lính Mỹ, bất chấp MACV báo động quyết định này sẽ gây khó cho thủ tục việt nam hoá.<br /><br />Tháng hai 1970, dưới sự chỉ huy của Ðại tá Don Schungel, những toán thám thính Prairie Fire. thuộc kế hoạch OP 35, thực hiện 441 chuyến ï quan sát tại Lào, dọc đường mòn Hồ Chí Minh. và gặp sự chống cự mãnh liệt của các toán truy nã, tracker teams, Bắc Việt. 12 quân nhân Mỹ tử vong, 98 bị thương và 4 mất tích.<br /><br />Tại Cam bốt, trong 4 tháng đầu năm 1970, kế họach thám sát Salem House khám phá BV lập nhiều căn cứ đột nhập và trạm tiếp viện gần biên giới Miên-Việt. Ngày 18.3.1970, tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk. Cuộc hành quân hỗn hợp Mỹ-Viêt mang tên Operation Bình Tây trên đất Miên phá hủy, ít nửa tạm thời, hệ thống quân sự địch. Ngày 1.5.1970, sinh viên phản chiến của Kent State biểu tình chống đối rầm rộ ở Ohio. Tiếp theo , dân chúng xuống đường tại Washington. Kết quả là, kể từ 30.6.1970, cơ quan MACVSOG không còn được phép dùng biệt kích Mỹ trên đất Miên. Tổng kết, chiến dịch Salem House đã thực hiện 577 lần xuất quân. Tất cả – trừ 19 – có tính cách thám sát.<br /><br />Ðể chuẩn bị tái ứng cử Tổng thống năm 1972, Nixon lấy một quyết định ngoạn mục: cắt đường mòn Hồ Chí Minh tại Lào dài theo quốc lộ 9 và tiêu hủy cơ sở BV trong vùng. Tướng Creighton Abrams, tư lệnh MACV, đề xướng chiến dịch Lam Sơn 719 do hai tướng Hoàng Xuân Lãm và James Sutherland điều động. Skip Sadler, người chỉ huy chót của MACVSOG, nói với tướng Lãm: " Mối lo lớn nhất của tôi là làm cách nào ông sẽ rút khỏi địa ngục này." Ðể dọn đường cho chiến dịch và đánh lạc hướng đối phương, các đội đặc công SOG thả dù những hình nộm , chất nổ và truyền đơn ở phiá Tây Khê Sanh và trong thung lủng Ashau nhưng tướng Võ Nguyên Giáp không để bị gạt và sẳn sàng ứng chiến với 4 sư đoàn chính quy. Lam Sơn 719 bắt đầu ngày 8 tháng hai. Sau 6 tuần chiến đấu, Quân đội VNCH tổn thất 50% và Việt cộng kiểm soát được phần đất phiá tây của Quân khu 1 và vùng DMZ. Con dường tiến về Huế không còn bị ngăn. BV chuẩn bị tổng tấn công vào mùa Phục sinh 1972.<br /><br />Ðại tá Roger Pezzelle, người chỉ huy cuối cùng kế hoạch đặc công OP 35, than phiền bị Hoa Thịnh Ðốn bó tay vì từ nay, mổi lần hành quân thám sát tại Miên hay Lào đều phải xin phép trước ba hôm Bộ Tham mưu Liên Quân HK ngang qua MACV. Chán nản, ông nói: "Isn’t it ridiculous?". Ngày 30.4.1972, bằng một thông cáo, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương ra lệnh chuyển giao tất cả chương trình SOG cho Nha Giám đốc Kỹ thuật Chiến lược của VNCH. Từ tháng giêng đến cuối tháng ba, tai mắt của MACV trên lãnh thổ CS không còn nửa.<br /><br />Kinh nghiệm từ một sự thất bại. Vai trò tương lai của chiến tranh bất quy ước<br /><br />Ðến nay, về cuộc chiến âm thầm chống Bắc Việt, có nhiều phóng sự giật gân của tác giả ngoại quốc hay hồi ký phiến diện của một số cựu biệt kích từng bị CS giam cầm. Xuyên qua hồ sơ vừa được Bộ Quốc phòng bạch hóa - có thể chưa nói hết - thế giới nhận rỏ hơn vì sao Hoa kỳ thua ở VN về cà hai mặt, chiến tranh quy ước và chiến tranh bất quy ước. Những lý do nào khiến Mỹ thất bại trong chiến tranh thứ hai?<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">1. </span>Thiếu chủ trương thích ứng, đồng nhất và liên tục, thiếu lãnh đạo ở cấp chóp bu. Eisenhower dùng chiến tranh mật như một lợi khí hệ trọng để thắng thế trong Chiến tranh lạnh. Kennedy, quá lý tưởng, áp dụng các phương pháp chiến tranh mật một cách năng nổ nhưng không nghiên cứu kỹ quyết tâm và phản ứng của địch. Ðể cứu vản chương trình chấn hưng xã hội "The Great Society" của ông tại Mỹ và vì bị xô đẩy bất thần vào một tình trạng khủng hoảng sau cái chết của Diệm và Kennedy, Lyndon Johnson thận trọng đối phó với Hànội theo đường lối "graduated answer/graduated pressure, trả lời/gây áp lực tùy thời ". Chính sách "gà nuốt giây thung" này bó tay SOG. Với Nixon, covert action, cuộc chiến đấu âm thầm là một chiến thuật để thoát khỏi bế tắc đối ngoại. Nói tóm tắc, HK đánh mà không muốn thắng, Công luận HK không đủ nhẫn nại để chiụ đựng một cuộc chiến dai dẳng. Ấn tượng Nga- Tàu ám ảnh không thôi Hoa Thịnh Ðốn.<br /><br />Mặt khác, CIA thất sủng không hết lòng côïng tác với SOG trong giai đoạn chuyển tiếp 1962.- 1964. Nghiêm trọng hơn, các Tư lệnh liên tiếp của MACV, từ Paul Harkins, Maxwell Taylor, William Westmoreland cho đến Creighton Abrams, vẫn coi chiến tranh quy ước là biện pháp hữu hiệu duy nhất và. không tin chiến tranh mật giải quyết được gì. Quân đội từ chối sáp nhập SOG vào các kế họach chiến tranh. Ngoài ra, Ðại sứ HK William Sullivan tại Vientiane không mấy sốt sắng giúp biệt kích SOG độât nhập Lào để khuấy phá đường mòn Hồ Chí Minh, viện lẽ Hiệp ước Genève 1962 đã trung lập hoá nước này. Cấp chỉ huy cơ quan SOC – Blackburn, Singlaub và Cavanaugh - than phiền thái độ dè dặc của Sullivan gây khó khăn cho họ không ít.<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">2.</span> Thiếu sự huấn luyện và kinh nghiệm tâm lý cần thiết. Thuyết chiến tranh bất quy ước, unconventional warfare doctrine, đến nay vẫn được xem như một phần ăn khớp với chiến tranh nóng và không có vai trò then chốt trong chiến tranh lạnh. Du kích không có mặt trận. Có nhiều khác biệt sâu rộng giữa những gì Special Warfare School tại Fort Bragg dạy suốt 15 tuần lễ cho các sĩ quan thuộc Lực lượng Ðăïc biệt và thực tế chiến trường ở Bắc Việt trong phạm vi thám báo, chiến tranh tâm lý, chống khủng bố, phá hoại hậu cần địch, phương thức để sống sót trong nghịch cảnh ..vv.. Công tác tiếp vận các toán xung kích vượt tuyến vấp phải muôn vàn trở ngại. Chương trình huấn luyện, tổ chức theo lối Mỹ tại các trường biệt kích Thủ Ðức và Long Thành, không thích ứng vói nhu cầu chiến lược và chiến thuật. Chính phủ Miền Nam không có tiếng nóí quyết định trong các cuộc hành quân bên kia vĩ tuyến. Ai chi địa thì chỉ huy! Nội gián len lõi vào bộ máy đánh giặc phíùa quốc gia. Ðể làm việc với đồng minh Mỹ về biệt kích, Chính phủ Sàigòn có Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống (thời Ngô Ðình Diệm) đổi thành Nha Kỹ thuật năm 1963, do một sĩ quan cấp tá chỉ huy: Lê Quang Tung, Trần Văn Hổ, rồiVương Văn Ðông (được lối 3 tháng), sau hết Ðoàn Văn Nu.<br /><br />Nói tóm tắt, Mỹ thua chiến tranh quy ước lẫn bất quy ước vì dốt tâm lý Á châu, không nắm vững chiến thuật du kích, ngạo mạn, thẩm lượng sai ảnh hưởng của Bắc kinh và Mạc tư khoa đối với Hànội, đoán trật quyết chí của CSVN và coi thường đồng minh Việt Nam Cọng hoà. Miền Nam là con cờ thí trong chiến lược toàn cầu Hoa kỳ. "Ðất nước có thể tránh được chăng số mạng hẩm hiu nếu nhà cầm quyền ở Sàigon, thay vì vọng ngoại, biết sáng suốt tạo một cái thế dân tộc vững chắc và chọn con đường dân chủ thích hợp? ", người quốc gia vẫn tự hỏi như thế, tuy đã chậm. Dĩ vãng, dù sao, cũng là ông thầy tốt nếu không uổng phí bài học quá khứ.<br /><br />Hiện không có thống kê chính thức về số cãm tử quân hy sinh tại BV. Phỏng chừng 500 người mất tích. Riêng kế họach OP 35 gồm có ba toán tổng cọng 110 sĩ quan và 615 đặc công.Trong mỗi đội thám sát có ba người Mỹ và 250 Việt. Từ tháng hai đến tháng tư 1973, Hànội phóng thích 591 tù binh HK, không có sĩ quan SOG nào. Vận mệnh của những chiến sĩ đặc nhiệm ra sao? Thời Kennedy, tổng nhân số Lực lượng Ðặc biệt lên đến 10.000 người. Thập niên 70, sụt xuống còn 3.600. Chính quyền Mỹ muốn quên họ đi, viện lẽ .... không có tuyển mộ họ công khai.(!). Theo Sedgwick Tourison ,tác giả quyển sách "Secret Army, Secret War", nxb Marine Institute, 1994, nhờ Ðại sứ HK David Lambertson ở Bangkok can thiệp mạnh, 15 người, cựu biệt kích VN đầu tiên được Sở Di cư và Nhập tịch cho vào Mỹ năm 1995. Gần đây, Quốc hội biểu quyết trợ cấp 40.000 đô cho mỗi người.<br /><br />Chiến tranh lạnh đã chấm dứt, chiến tranh nóng phản ý nguyện hoà bình của nhân loại. Hai nhóm chủ trương và chống đối chiến tranh bí mật vẫn tranh luận sôi nổi. Thời thế mới, - nửa lạnh nửa nóng -, đòi hỏi biện pháp mới, thực tế và hữu hiệu hơn. Răn đe suông hay xử dụng bừa bải võ khí tối tân không thích hợp. Tháng 11.1986, thời TT Reagan, Quốc Hội Mỹ biểu quyết thành lập SOCOM, US Special Operations Command. Cơ quan này, đặt dưới quyền điều khiển của một tướng bốn sao, có trách vụ thảo hoạch đường lối và chăm lo các vấn đề huấn luyện, điều nghiên kế hoạch và .trang bị các lực lượng tác chiến đặc biệt, special operations forces hay SOF. Nói cách khác, chính quyền HK công nhận cần tổ chức và xử dụng chiến tranh bí mật để đối phó những trường hơp "tranh chấp có cường độ thấp, low intensity conflicts hay LIC", thường xảy ra ngày nay trên địa cầu với nhóm quốc gia bất trị (còn gọi là "nước du côn, rogue nations") thích xử dụng vô tội vạ khủng bố, vũ khí giết số đông và xúi dục phiến lọan. Rắn rít độc hại hơn khủng long. Ngoài ra, sắc tộc, tôn giáo và tội ác có tổ chức cũng gây bất ổn dễ dàng. Tài khóa 1987, SOF nhận được 1,6 tỷ trong ngân sách quốc phòng 300 tỷ đô. Thời hậu chiến tranh lạnh khó kiểm soát hơn cả chiến tranh lạnh. Rối rấm có thể nổ bất luận ở đâu, lúc nào, vì mọi lý do.<br /><br />Trong tương lai, về an ninh, Hoa kỳ sẽ trực diện nhiều thách thức quốc tế mới. Cần điểu chỉnh và cập nhật hoá thường xuyên tân chính sách, chiến lược và phương tiện. Hoa Kỳ cũng sẽ gặp trở ngại và phiền toái gây thất vọng như ở Việt Nam. Kinh nghiệm đã qua giúp siêu cường này không tái phạm sơ suất củ. Mong lắm thay!<br /><br />Lâm Lễ Trinh<br />Ngày 9.5.2001<br /><br />Thủy Hoa Trang<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">Tài liệu tham khảo</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">• "The Secret War Against Hanoi" của Richard H. Shultz, JR. Harper Collins Publishers, 2000</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">• "Secret Army, Secret War" của Sedgwick Tourison, Marine Institute Publ. 1994</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">• "Early Covert Action on the Ho Chí Minh Trail" của Ken Conboy & James Morisson in VIETNAM, August 2000</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">• "Project Delta Disaster" của Ken Conboy & J. Morrison in VIETNAM, October 2000</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">• "Việt Nam, Histoire secrète d’une victoire perdue", par William Colby, Perrin , Paris , 1989</span><br /><br /><br /></div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-15987300253763725432010-01-29T15:53:00.000+11:002010-01-29T15:54:29.622+11:00“Người Mỹ đã phản bội chúng tôi” - Vô Thường<center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S2JmCnOA8gI/AAAAAAAAHqI/LQzgigToT4Y/s1600-h/C1269-20.jpg"><img style="WIDTH: 550px; HEIGHT: 433px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432016295635776002" border="0" alt="" src="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S2JmCnOA8gI/AAAAAAAAHqI/LQzgigToT4Y/s400/C1269-20.jpg" /></a></center><span style="FONT-STYLE: italic;font-size:85%;" ><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Vô Thường</span>, lược dịch</span><br /><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify"><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Vào tháng 12 năm 1979, trong dịp được Tuần báo Đức Der Spiegel phỏng vấn, cựu Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã phản bác về những liên quan đến chiến tranh Việt Nam trong tập hồi ký của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Henry Kissinger.</span></div><br /><center>ooOoo</center><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify"><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Thưa ông Thiệu, trong suốt 5 năm từ 1968 đến 1973, Hoa Kỳ đã nổ lực đàm phán hòa bình cho Việt Nam. Là Trưởng đàm phán của Mỹ, Henry Kissinger đã mô tả chi tiết trong hồi ký của mình về ông, với tư cách là Tổng thống Nam Việt Nam, đã phá hoại những nỗ lực của ông ta như thế nào nhằm mang hòa bình cho cuộc chiến kéo dài nhiều năm, tổn thất hàng triệu nhân mạng và như muốn “bóp nát trái tim Hoa Kỳ” như lời của Kissinger nói. Tại sao ông lại cản trở như vậy?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu: </span>Điều đó hoàn toàn vô lý. Nếu như tôi ngăn cản thì đã không thể có chuyện dàn xếp hòa bình trong năm 1973. Tuy nhiên, như mọi người đã biết, đó không phải là một nền hòa bình tốt đẹp khi chứng kiến những hậu quả xảy ra tại Việt Nam. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của Chính phủ Hoa Kỳ. Với tư cách là Tổng thống Việt Nam, tôi có nhiệm vụ bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước tôi.<br /><br />Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và Tiến sĩ Kissinger rằng giũ bỏ vài vị thế không mấy quan trọng tại một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam có thể không có nhiều ý nghĩa đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, nhưng đối với chúng tôi đó là vấn để giữa sự sống và cái chết của toàn bộ một đất nước.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đã đồng ý dàn xếp hòa bình. Nhưng ông ta nói lý do chính khiến phải mất nhiều thời gian vì ông đã cản trở quyết liệt và lý do thực chất ông không bao giờ phản đối các đề xuất của Mỹ vì ông tính toán rằng tất cả những đề xuất đó sẽ bị Hà Nội bác bỏ.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Không đúng như vậy. Chỉ mất thêm hơn 2 hoặc 3 ngày hay 2 hoặc 3 tháng để chấm dứt cuộc chiến đã diễn ra gần 30 năm. Tôi nhận ra cuôc chiến này là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của Hoa Kỳ, trong đó họ là người đã viện trợ cho chúng tôi. Có thể vì vậy mà người Mỹ tỏ ra vội vàng như thế. Tuy nhiên, chúng tôi cần một nền hòa bình vững chắc.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Kissinger ám chỉ rằng ông không thật sự muốn có một giàn xếp hòa bình và hy vọng Bắc Việt cũng sẽ ngoan cố giống như ông. Vì vậy, ông ấy quả quyết dù ông đã đồng ý nhiều đề xuất của phía Mỹ nhưng không bao giờ muốn phải tuân thủ những đề xuất đó, vì trong bất cứ trường hợp nào ông không tin là thỏa thuận sẽ đạt được. Ông có lừa bịp trong đàm phán với hy vọng ông sẽ không bao giờ phải nói rõ hết ý định của mình?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Không. Một quốc gia phải chịu đựng nhiều như thế trong suốt hơn 30 năm không thể nào bị kết tội là muốn kéo dài cuộc chiến. Kissinger muốn tiến hành nhanh để lính Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được phóng thích. Và có thể vì Chính phủ Mỹ muốn vội vã thoát ra, “cắt và chạy”.<br /><br />Họ có thể thoát khỏi cuộc chiến. Chúng tôi phải ở lại Nam Việt Nam. Chúng tôi có đủ mọi quyền để đòi hỏi một sự giàn xếp hòa bình toàn diện, không phải chỉ là một nền hòa bình trong 2 hoặc 3 năm rồi sau đó lại thêm một cuộc chiến 30 năm khác.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Vậy tại sao ông dự tính trước Hoa Kỳ theo như Kissinger báo cáo, bằng việc tự mình đề xuất Hoa Kỳ rút quân tại cuộc họp ở Midway tại Thái Bình Dương vào tháng 6 năm 1969?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu: </span>Thậm chí trước cuộc họp ở Midway, việc Hoa Kỳ có ý định rút quân là không có gì bí mật. Tôi muốn nhắc cho anh nhớ rằng tin tức về kế hoạch rút một số lượng quân Mỹ đã loan tải trên toàn thế giới trước cuộc họp Midway. Tại sao? Tôi cho đó là vì Chính phủ Mỹ muốn thăm dò dư luận, tiết lộ thông in cho báo chí và đưa chúng tôi vào sự việc đã rồi.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Như thế ông đã hiểu rõ được sự việc?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu: </span>Vâng đúng vậy. Cuộc họp Midway nhằm hai mục đích. Nó mang đến cho hai tân tổng thống một cơ hội để hiểu về nhau và đàm phán về vấn đề Việt Nam. Điểm thứ hai đã vạch rỏ trong nghị trình đó là kế hoạch rút quân Mỹ đầu tiên. Tôi không hề ảo tưởng và tôi nắm bắt được tình hình. Không có gì phải lo lắng và tôi cảm thấy rất tự tin.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Khi đề xuất việc rút quân, ông có thật sự nghĩ rằng ông có thể tự tiến hành chiến tranh và cuối cùng giành thắng lợi trong cuộc chiến - một cuộc chiến tranh mà hơn 540.000 quân Mỹ và bộ máy quân sự hùng mạnh của Hoa Kỳ đã không thể thắng nổi? Thật khó để tin vào điều đó.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Không. Thật ra tôi không phải là người đề xuất. Tôi chỉ đơn giản là chấp thuận. Tôi đồng ý đợt rút quân Mỹ đầu tiên vì Tổng thống Nixon đã nói với tôi rằng ông ấy có một số vấn đề quốc nội và việc rút quân chỉ hoàn toàn mang tính tượng trưng. Ông ta phải có ý kiến công chúng và Quốc hội phía sau. Nhưng tôi cũng nói với ông ấy rằng ông ta phải chắc chắn Hà Nội không xem đợt rút quân đầu tiên như là một dấu hiệu yếu kém của Hoa Kỳ.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Và ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Không. Tôi có thể hình dung đó có thể là bước đầu tiên trong biện pháp giảm quân số. Tôi không thể nào tưởng tượng nổi Hoa Kỳ sẽ vứt hết tất cả và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã đề xuất với Tổng thống Nixon rằng việc cắt giảm nên được tiến hành từng bước, đến khi khả năng chiến đấu và sự cũng cố quân đội Nam Việt Nam cho phép Việt Nam có thể đứng trên đôi chân của chính mình, tùy thuộc vào viện trợ kinh tế và quân sự.<br /><br />Quan trọng hơn, tôi đã kiến nghị ông ta có thể yêu cầu Hà Nội đổi lại cũng có hành động tương tự. Người Mỹ hoàn toàn đồng ý với tôi về ….<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic"><span style="FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span> …. và rút quân tượng trưng?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu: </span>Tôi nhận ra cuộc chiến Việt Nam cũng gây ra những vấn đề bên trong nước Mỹ. Và Tổng thống Nixon nói ông cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó.<br /><br />Khi tôi ở Hán Thành và Đài Loan một tuần trước đó, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân mà tôi bàn bạc với Tổng thống Nixon trong cuộc đàm phán tại Midway chỉ mang tính tượng trưng. Nhưng tôi đã chỉ ra rằng chúng tôi không thể ngăn ngừa việc Hoa Kỳ rút toàn bộ quân nếu họ muốn. Vì vậy sẽ là khôn ngoan hơn khi yêu cầu Mỹ rút quân từng bước và cùng lúc đó cung cấp viện trợ để chúng tôi xây dựng một quân đội Nam Việt Nam vững mạnh và hiện đại để thay thế người Mỹ. Tôi không bao giờ yêu cầu quân đội Mỹ ở lại Việt Nam mãi mãi.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Quân Mỹ đã đặt tại Nam Hàn và Tây Đức.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Nhưng chúng tôi là những người rất tự trọng. Chúng tôi đã nói với họ chúng tôi cần viện trợ và vũ khí nhưng chúng tôi có đầy nhiệt huyết trong huyết quản và thừa binh lính.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Ông mô tả thế nào về tình cảnh của mình khi đó? chỉ vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Melvin Laird đã đề ra “Việt Nam hoá”. Người Mỹ trước đó đã nói về cuộc chiến “phi Mỹ hóa”. Không phải chỉ tên gọi này thôi cũng đã nói rõ ràng là Hoa Kỳ có ý định rút quân một cách nhanh chóng?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu: </span>Khi ông Nixon đến Sài Gòn vào tháng 7 năm 1969, ông ta nhắc lại rằng ông cần có công chúng Mỹ phía sau. Tôi hiểu vị thế của ông ta. Nhưng ông ấy không bao giờ lý giải rút quân có nghĩa là cắt giảm nghị trình có hệ thống và theo sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói về những khó khăn trong nước tại Mỹ và đề nghị tôi giúp. Ông nói “giúp chúng tôi để giúp các anh”. Tôi trả lời “Tôi sẽ giúp các ông để có thể giúp chúng tôi”. Tại cuộc họp chúng tôi lại bàn về vấn đề rút quân từng phần.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Nhưng không đặt ra lịch trình?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Không. Và Ông Nixon lại hứa là bất kỳ đợt rút quân nào cũng sẽ tương xứng với những biện pháp tương tự của phía Bắc Việt và sẽ phù hợp với khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như đi kèm với những viện trợ thêm về quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Tại thời điểm đó ông có nhận ra Hoa Kỳ đã sẵn sàng đơn phương rút quân nếu cần thiết?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Có, tôi có nghi ngờ điều đó. Nhưng khi đó tôi vẫn rất tự tin và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Có thể ông đúng khi nhận định như vậy. Rỏ ràng trong cuốn sách của Kissinger chính quyền Nixon không thể “chiến thắng một cách dễ dàng một chiến dịch có liên can đến hai chính quyền, năm quốc gia đồng minh và ba mươi mốt ngàn người chết như thể chúng ta chuyển một đài truyền hình”.</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic">Người Mỹ rỏ ràng muốn thoát ra khỏi Việt Nam bằng đàm phán. Họ không muốn đơn phương rút quân trừ khi họ buộc phải làm điều đó. Ông có đưa ra bất kỳ yêu cầu nào về các cuộc đàm phán giữa Washington và Hà Nội?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Chiến tranh đã quá đủ với chúng tôi và chúng tôi quyết định chấm dứt cuộc chiến bằng đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những lực lượng đã xâm chiếm đất nước phải rút quân. Tất cả chỉ có vậy.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Ông oán trách sự sụp đổ của Nam Việt Nam trong năm 1975 chủ yếu được quy cho thực tế rằng quân đội Bắc Việt được phép ở lại miền Nam thậm chí sau khi Hiệp định Hòa bình Paris đã ký kết. Ông khẳng định ông chỉ bỏ qua sự hiện hiện của Bắc Việt trong khi hiệp định đang đàm phán và họ phải rút quân khi đàm phán kết thúc.</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic">Nhưng Kissinger khẳng định trong cuốn sách của mình ông không hề đưa ra phản đối với đề xuất của Mỹ về vấn đề này cho đến tháng 10 năm 1972.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Đó là lời dối trá vô giáo dục nhất từ phía Kissinger khi nói tôi đồng ý cho quân Bắc Việt lưu lại miền nam. Nếu tôi đồng ý ngay từ đầu như Kissinger đã nói, thì tôi đã không phản đối kịch liệt khi ông ta cho tôi xem bản dự thảo hiệp định trong đó không hề chứa đựng bất kỳ điều khoản nào về vấn đề rút quân của Bắc Việt.<br /><br />Đó là điểm quan trọng nhất mà tôi đã đấu tranh trong suốt quá trình đàm phán hoà bình. Từ đầu đến cuối, tôi yêu cầu Kissinger buộc Hà Nội rút quân và giải thích cho ông ta rằng sẽ chẳng có hiệp định nào hết trừ khi Bắc Việt thực thi điều đó.<br /><br />Sau nhiều ngày tranh luận quyết liệt, Kissinger cuối cùng thú nhận với tôi: “Thưa ngài Tổng thống, điều đó không thể thực hiện được. Nếu được tôi đã làm. Vấn đề đã được đặt ra cách đấy 3 năm nhưng Liên Xô sẽ không chấp nhận”. Sau đó tôi nhận ra Chính phủ Hoa Kỳ đã nhượng bộ yêu cầu của Liên Xô và đó là điều làm tôi thất vọng nhất.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Có thể Liên Xô không có lựa chọn khác vì Bắc Việt phủ nhận xem Nam Việt Nam như là một ngoại quốc và thậm chí có khi họ phủ nhận Bắc Việt có quân đội thường trực tại Nam Việt Nam.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu: </span>Chúng tôi đã ở trong chiến tranh hơn 20 năm và chúng tôi biết không bao giờ tin vào những gì Nga Xô và Bắc Việt nói. Bắc Việt có quân đội tại Lào, Campuchia và Nam Việt Nam. Tôi nghĩ thậm chí một người mù cũng có thể nhìn thấy điều đó. Để chấm dứt chiến tranh, chúng ta phải nhìn vào thực tế chứ không phải nghe những gì kẻ thù đang nói.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Ông có đặt ra những điểm này với Kissinger?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Tất nhiên và cả với Tướng Haig. Tôi hỏi ông ta: “Tướng Haig, ông là một vị tướng và tôi cũng là một vị tướng. Vậy ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép lực lượng kẻ thù lưu lại trên đất nước mà họ đã xâm chiếm?” Tôi hỏi ông ta: “Liệu ông có cho quân Liên Xô đóng trên lãnh thổ Mỹ và nói rằng ông đã đạt được dàn xếp hòa bình với Liên Xô?”<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Ông ấy nói thế nào?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Ông ta không nói gì cả. Làm sao ông ta có thể nói gì - điều đó thật phi lý. Ông ta nói gì đây?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Kissinger đã đưa ra câu trả lời trong cuốn sách của mình. Ông ấy nói Bắc Việt sẽ không thực hiện rút quân vì Hà Nội sẽ không nhượng bộ trên bàn đàm phán những gì họ không bị buộc phải từ bỏ trên chiến trường. Nhưng ông ta nói thêm Hiệp định Hòa bình Paris chứa đựng một điều khoản nghiêm cấm bất kỳ việc xâm lấn thêm nào và kế luận “điều này sẽ làm cho lực lượng Bắc Việt tại miền nam hao mòn làm tiêu hao sinh lực một cách tự nhiên”.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Khi đàm phán với Cộng Sản, tôi cảm giác như Chính phủ Hoa Kỳ và cụ thể là Tiến sĩ Kissinger hoàn toàn không biết gì về những trải nghiệm không mấy ngọt ngào của Pháp với Cộng Sản vào năm 1954 hoặc từ cuộc chiến Triều Tiên. Họ không biết gì về những cuộc hội đàm với Lào và Campuchia. Họ không biết làm thế nào để đối phó với Cộng Sản và làm thế nào để lý giải chiến lược và chiến thuật của họ.<br /><br />Do đó chúng ta trở lại vấn đề làm sao Tiến sĩ Kissinger, người đại diện cho một nước lớn và khoe khoang rằng ông ta là thương thuyết gia tài ba nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt sẽ không xâm chiếm Nam Việt Nam. Làm sao ông ta có thể tin như vậy?<br /><br />Liệu ông ta có thể canh gác trên tất cả chốt biên phòng dọc biên giới của Campuchia, Lào và Nam Việt Nam. Thậm chí nếu chúng tôi có một triệu lính canh gác quốc tế, chúng tôi cũng không thể chứng minh là không hề có sự xâm chiếm nào. Làm sao ông ta có thể tin vào những gì Bắc Việt nói. Ông ta có thể tin vào Cộng Sản nhưng chúng tôi thì không. Đó là vì sao tôi khăng khăng yêu cầu Bắc Việt rút quân. Nếu Bắc Việt thật sự muốn có hòa bình, tại sao họ muốn ở lại?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Kissinger nói gì về điều đó?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu: </span>Ông ta có thể nói gì đây? Điều mà ông ta và Chính phủ Hoa Kỳ thật sự muốn là rút quân càng sớm càng tốt và đảm bảo tù binh Mỹ được phóng thích. Họ nói với chúng tôi họ muốn một giải pháp danh dự, nhưng họ thật sự muốn giải quyết mọi việc và thoát ra càng nhanh càng tốt mà không bị người dân Việt Nam và phần còn lại của thế giới lên án vì đã bỏ rơi chúng tôi trong cơn hoạn nạn. Đó là vấn đề của họ.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Kissinger viết ngay sau cuộc tiến công mùa xuân của Bắc Việt năm 1972, vai trò có vẻ như đã bị đảo ngược. Bắc Việt bất ngờ muốn nối lại đàm phán trong khi Nam Việt Nam lại muốn chiến đấu đến khi giành thắng lợi cuối cùng.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Hoàn toàn vô lý! Tiến sĩ Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đã gây ra chiến tranh tại Nam Việt Nam. Chúng tôi muốn họ rút quân. Đó gọi là chiến thắng sao? Tôi không bao giờ yêu cầu người của Bắc Việt được xem là tù binh chiến tranh tại Nam Việt Nam. Tôi không bao giờ đòi hỏi Bắc Việt trả bồi thường chiến tranh. Tôi không bao giờ đòi hỏi Bắc Việt nhượng bộ lãnh thổ. Tôi không bao giờ yêu cầu có ghế trong chính phủ tại Hà Nội. Vậy Kissinger hiểu chiến thắng và chiến thắng toàn diện là gì?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Về vấn đề rút quân của Bắc Việt, theo Kissinger ngày 31 tháng 5 năm 1971 là một ngày quan trọng. Đó là thời điểm trong các cuộc đàm phán bí mật, Hoa Kỳ đã từ bỏ yêu cầu hai bên cùng rút quân. Tiến sĩ Kissinger nói ít nhất ba lần trong cuốn sách rằng ông đã được thông báo trước và ông đã đồng ý.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Tôi không bao giờ đồng ý việc đơn phương rút quân. Sau cuộc họp Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng phần và cả hai bên cùng rút quân. Mỹ đã thay đổi lập trường và sử dụng chiến thuật thông thường nhằm ép buộc chúng tôi để chiếm lấy và đặt thanh gươm Damocles lên đầu chúng tôi, trích dẫn dư luận Mỹ với những nhận xét như: “Bây giờ ông đang có một hình ảnh rất xấu tại Mỹ!” hoặc “Quốc hội sẽ cắt giảm viện trợ.”… Họ sử dụng lại chiến thuật cũ, tiết lộ cho báo chí và đặt chúng tôi vào việc đã rồi.<br /><br />Nếu tôi từ chối dư luận sẽ quay sang chống đối tôi: “Ông ta đòi hỏi quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ để Mỹ rút quân, ông ta sẽ không bao giờ để tù binh Mỹ trở về nhà”. Vì vậy tôi phải nhượng bộ. Không tự nguyện nhưng miễn cưỡng. Làm sao tôi có thể phản đối khi họ sẽ nói ngay rằng: “viện trợ sẽ bị cắt nếu ông không tuân theo”.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Kissinger nói ông luôn được tham vấn trước về tất cả mọi quyết định của Hoa Kỳ, dưới bất kỳ hình thức nào.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Đúng, họ có bàn bạc với tôi, nhưng tất nhiên họ không muốn nghe tôi nói “không” đối các quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong hầu hết trường hợp áp lực đem lại cho họ hầu hết những gì họ muốn.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Kissinger giờ đây chỉ trích một cách cay đắng về cuộc tiến công Lào năm 1971. Ông ấy nói ông cho rằng cuộc tiến công mùa khô là rất cấp thiết. Vậy ý tưởng ban đầu là của ai?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Đó là ý tưởng của họ. Trước đó rất lâu chúng tôi đã từng muốn tiến hành cuộc tấn công, nhưng chúng tôi không thể thực hiện một mình. Bây giờ Hoa Kỳ đề xuất nên chúng tôi vui vẻ đồng ý để chấm dứt cuộc chiến nhanh hơn. Đó là một chiến dịch liên quân Việt-Mỹ với các nhiệm vụ qui định rất rõ ràng: quân đội Nam Việt Nam có nhiệm vụ tiến hành chiến dịch tại Lào và lính Mỹ sẽ hỗ trợ tiếp tế bên ngoài Việt Nam, từ biên giới đến nơi giao chiến.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Tại sao? Vì quốc hội Mỹ rõ ràng đã cấm đoán quân Mỹ xâm nhập lãnh thổ Lào?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu: </span>Tôi tin là vậy. Nhưng cũng bởi vì chúng tôi không có phương tiện tiếp tế cho binh lính và quan trọng nhất là chuyên chở thương binh ra ngoài. Điều đó chỉ có thể tiến hành bằng trực thăng và Hoa Kỳ là bên duy nhất có đầy đủ trực thăng. Không có trực thăng, chúng tôi không bao giờ đồng ý tiến hành chiến dịch tại Lào.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Kissinger nói binh lính của ông gặp vấn đề khi đưa ra yêu cầu không quân hỗ trợ vì các đơn vị Việt Nam gần như không có những chuyên viên kiểm soát mặt đất được huấn luyện có thể nói được tiếng Anh.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu: </span>Hoàn toàn không có vấn đề gì đối với việc hỗ trợ của không quân. Chúng tôi không hề lo lắng nếu thỉnh thoảng không có không quân hỗ trợ, chúng tôi đã có pháo binh. Vấn đề là người Mỹ đã mất nhiều phi công trực thăng trong ba ngày đầu tiên của chiến dịch. Vì thế họ không sẵn sàng cất cánh theo lịch trình và với số lượng cần thiết. Điều đó đã trở thành một vấn đề lớn đối với quân đội Nam Việt Nam.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Có phải tinh thần binh lính đã suy sụp?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Chúng tôi không thể chuyên chở binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến tinh thần mà còn cả đến việc tiến hành chiến dịch.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Kissinger đưa ra một lý do khác giải thích tại sao chiến dịch thất bại. Ông ta nói ông đã ra lệnh cho binh sĩ của mình phải thận trọng khi di chuyển về phía tây và ra lệnh chấm dứt chiến dịch toàn bộ ngay khi chịu tổn thất 3.000 binh lính. Kissinger cho rằng người Mỹ sẽ không bao giờ chấp thuận kế hoạch có hạn chế này và đã được thông báo đến cho họ.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Đối với một quân nhân, ý tưởng đặt ra một giới hạn về số thương vong trước là rất vô lý. Tiến sĩ Kissinger phải là một người rất giàu trí tưởng tượng khi nói như thế. Chúng tôi chỉ có thể di chuyển về phía tây xa đến mức mà trực thăng di tản có thể bay đến. Kissinger nói chúng tôi rút quân mà không hề thông báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái hơn 10.000 quân mà không hề thông báo cho người Mỹ?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Vậy là ông đã thông báo cho họ biết?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Ồ, tất nhiên. Và hãy để tôi kể cho anh nghe một câu chuyện. Khi đó tờ Time hay Newsweek gì đó đã đăng tải bức hình một binh sĩ Nam Việt Nam đang cố bám vào bộ phận hạ cánh của một chiếc trực thăng với chú thích “kẻ hèn nhát”. Tôi chỉ cười. Tôi thấy điều đó thật kinh khủng. Không thể nào ngăn cản một binh sĩ bị bỏ rơi khỏi những hành động như thế. Nhưng tờ báo đã nhục mạ binh lính Nam Việt Nam như là những kẻ hèn nhát và cùng lúc đó hoàn toàn che dấu một sự thật là phi công trực thăng Hoa Kỳ không có tinh thần chiến đấu trong chiến dịch này.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Một điểm cốt lỏi trong sự tranh cãi giữa Nam Việt Nam và Hoa Kỳ là vấn đề ngừng bắn. Theo Kissinger, Chính phủ Mỹ đã quyết định đề xuất một cuộc ngưng bắn trên chiến tuyến hiện hữu ngay đầu mùa hè năm 1970. Kissinger nói ông không những đồng ý mà còn chấp thuận đề xuất đó.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Đúng vậy. Tôi cũng cho rằng ngưng bắn là một bước đầu tiên rất quan trọng để hoàn thành những nghĩa vụ của một thoả thuận hoà bình. Nhưng về vấn đề là ngay lặp tức - tôi nhắc lại một cuộc ngưng bắn ngay lặp tức - thì tôi không bao giờ đồng ý với Kissinger. Tôi nói chúng ta phải xem xét điều đó một cách cẩn trọng. Không thể tuyên bố ngưng bắn cho đến khi đã có những suy xét cẩn thận về việc ai sẽ là người giám sát cuộc ngưng bắn và điều gì sẽ xảy ra trong trường hợp có vi phạm, binh lính sẽ đóng ở đâu …<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Kissinger viết: “Chúng tôi vẫn nghĩ rằng chúng tôi đang cùng làm việc với Thiệu”. Người Mỹ không hiểu rằng ông đang áp dụng “chiến thuật lãng tránh của người Việt Nam đối với người nước ngoài”.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Điều đó không bao giờ xảy ra với một nước nhỏ như chúng tôi, một nước nợ gần như tất cả mọi thứ của đồng minh lớn và vẫn đang yêu cầu viện trợ lâu dài, lại có thể chơi trò bịp bợm.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Nhưng ông phải nghĩ rằng cuộc chiến cuối cùng cũng thất bại khi Mỹ rút quân và Bắc Việt được phép duy trì quân đội tại Nam Việt Nam?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Không hẳn như vậy, nếu chúng tôi tiếp tục nhận được viện trợ từ Hoa Kỳ và Chính phủ Hoa Kỳ giữ lời hứa khi chúng tôi ký vào bản hiệp định. Thậm chí khi ký kết hiệp định, tôi vẫn nghĩ đó chỉ là một drôle de paix - một nền hòa bình giả mạo.<br /><br />Nhưng chúng tôi vẫn tin chúng tôi có thể chống cự lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt nếu họ vi phạm các điều khoản của dàn xếp hòa bình. Chúng tôi có hai lý do để tin tưởng: thứ nhất, chúng tôi có một bảo đảm bằng văn bản từ Tổng thống Nixon rằng Mỹ sẽ đáp trả bằng tất cả lực lượng nếu thoả thuận bị vi phạm.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Mặc dù ông ta không bao giờ nói là đáp trả như thế nào.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Thứ hai, chúng tôi được nhận đầy đủ viện trợ kinh tế và quân sự đến khi nào chúng tôi cần để chống lại sự xâm lăng của Bắc Việt. Liệu Chính phủ Mỹ có giữ đúng lời hứa đó? Cuộc chiến có thể tiếp tục nhưng Bắc Việt sẽ không thể lật đổ Nam Việt Nam.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Ông và Kissinger ít nhiều đồng ý về điểm này. Ông ta viết, toàn bộ chiến lược có thể thành công nếu Hoa Kỳ ở vào vị thế có thể hành động với tất cả những vi phạm giàn xếp hoà bình của Bắc Việt và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho Nam Việt Nam. Cái gì đã sai? Kissinger đổ lỗi cho vụ Watergate và sự xói mòn của chính quyền hành pháp. Ông có thật sự nghĩ vụ Watergate phải chịu trách nhiệm cho sự thất bại?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Xin lỗi nhưng tôi không phải là một người Mỹ. Tôi không có trách nhiệm phải dọn dẹp trước hàng rào của họ. Nhưng nếu họ giữ lời hứa, đó sẽ là một cản trở tốt nhất đối với những sự xâm lăng thêm của Bắc Việt và có thể kết thúc chiến tranh.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Nếu Mỹ giữ lời hứa, ông có nghĩ bản hiệp định có thể dẫn đến một kết quả thành công toàn diện?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Tôi tin có thể sẽ là như vậy.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không phải quá tệ?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Đó chắc chắn không phải là một thỏa thuận tốt đẹp đối với chúng tôi. Đó là một thảo thuận giả tạo. Nhưng đó là phương kế cuối cùng. Anh phải hiểu là chúng tôi chỉ ký kết, như tôi đã nói, bởi vì chúng tôi có đảm bảo từ phía Chính phủ Hoa Kỳ và Hiệp định được bảo đảm bởi 12 quốc gia và Liên Hiệp Quốc.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Kissinger đưa ra bình luận một cách chua cay trong cuốn sách của mình về nhiều chính trị gia lớn. Nhưng ông ta có vẻ giành nhiều sự miệt thị đối với ông. Mặc dù ông ta ngưỡng mộ sự “thông minh”, “lòng dũng cảm” và “nền tảng văn hoá” của ông. Ông ta chăm chú đến “sự điều hành tàn bạo”, “xấc láo”, “sự ích kỷ độc ác” và “thủ đoạn gần như điên cuồng” của ông khi làm việc với người Mỹ. Ông nói gì về những gán ghép này trong hồi ký của Kissinger?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Tốt hơn là tôi không trả lời. Tôi thà không nói gì về ông ta. Ông ấy có thể nghĩ bất cứ điều gì ông ta thích về tôi, tốt hoặc xấu. Tôi thích nói về những gì đã thật sự xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Phải chăng ông đã đem đến cho ông ta một lý do nào đó để viết về ông theo một cách coi thường như thế này?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Có thể ông ta ngạc nhiên vì phải làm việc với một người quá thông minh và tài giỏi. Cũng có thể có vài điều phải làm với tính phức cảm tự tôn của một người quá tự phụ. Có thể ông ta không thể tin rằng một người đối thoại Việt Nam lại bình đẳng với một người tự cho rằng mình rất quan trọng.<br /><br />Để tôi kể anh nghe một chuyện khác, tôi cảm thấy thật buồn cười tại đảo Midway vì tôi không thể nào tưởng tượng nỗi những người như thế lại cực kỳ đê tiện. Trong dịp đó, ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi họp tại nhà của một sỹ quan hải quân Mỹ. Có ba cái ghế thấp và một cái cao hơn. Ông Nixon đã ngồi ở ghế cao hơn.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Giống như phim “Nhà độc tài vĩ đại”của Chaplin? Trong đó, Hitler đã ngồi ở một cái ghế cao để ông ta có thể nhìn xuống Mussolini đang ngồi tại nghế thấp hơn.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Nhưng tôi đã tìm một cái ghế khác cao ngang bằng cho tôi trong giờ nghỉ để cùng cấp với Nixon. Sau cuộc họp Midway, tôi nghe từ vài người bạn Mỹ của tôi rằng Kissinger không bao giờ trông đợi Tổng thống Thiệu trở thành một người như ông ta.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Kinssinger phàn nàn trong cuốn sách của mình rằng ông đã đối đãi với ông ta thật tệ hại trong cách cư xử cá nhân của mình, rằng ông đã bỏ cuộc hẹn lướt ván, Nixon thậm chí còn nói thêm, theo Kissinger, ông ta nói ông là “một thằng chó đẻ” và nói: “tàn bạo là bình thường, … sẽ không bao giờ được nhìn thấy, nếu … không đi cùng”.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Xin lỗi nhưng tôi không có gì để nói về điều đó. Tôi được giáo dục đầy đủ và tôi từ chối trả lời những lời bình phẩm mất lịch sự và khiếm nhã như vậy.<br /><br />Nếu tôi không tiếp đãi Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker, đó đơn giản là vì chúng tôi chưa đạt đến một điểm để có thể tiếp tục thảo luận với họ. Họ mất 4 năm vậy tại sao buộc tôi phải trả lời trong một giờ. Nếu người Mỹ có thể bỏ ra thời gian thì tại sao tôi lại không thể? Chúng tôi có thể phù hợp với họ nếu chúng tôi là những người ba phải, cái gì cũng đồng ý. Nhưng tôi không phải là một người ba phải và người miền nam không phải là một quốc gia của những người ba phải, Quốc hội chúng tôi không phải là một Quốc hội của những người ba phải. Tôi phải bàn bạc với họ.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Tiến sĩ Kissinger viết rằng thái độ của ông đối với ông ta về cơ bản được xác định là “căm thù một cách độc địa”</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Chắc chắn là có những cuộc tranh luận nảy lửa nhưng thái độ của tôi luôn luôn kiềm chế bởi động cơ yêu nước.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Kissinger viết ông có vài điều kiện để đạt được “vị thế gần như là không thể” trong đó ông tự nhận thấy. Ông có nhận ra dấu hiệu nào của điều kiện đó?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Không. Tất cả những gì tôi nhận thấy là áp lực từ Chính phủ Mỹ.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Kissinger viết ông không bao giờ tham gia vào một cuộc đàm phán dựa trên khái niệm. Ông ấy nói ông “đấu tranh theo cách của người Việt Nam: gián tiếp, giản lượt, bằng phương pháp nhằm làm cạn kiệt hơn là làm sáng tỏ, luôn luôn chăm chọc nhưng không bao giờ giải quyết vấn đề thực tế”</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Hãy đặt anh vào vị trí của tôi. Tôi đồng ý ngay từ đầu rằng Chính phủ Mỹ nên tham gia đàm phán bí mật với Hà Nội. Kissinger nói tôi sẽ luôn luôn được thông báo. Đúng, tôi đã được thông báo. Tôi được nghe những gì ông ta chọn để nói với tôi. Nhưng tôi tin đồng minh của tôi sẽ không bao giờ lừa gạt tôi, dàn xếp thỏa thuận trên đầu tôi và bí mật bán đất nước tôi.<br /><br />Nhưng, anh có thể tưởng tượng được không, chỉ bốn ngày trước khi ông ta ra Bắc Việt vào tháng 10 năm 1972, ông ta đưa tôi bản dự thảo hiệp định sẽ được ký tắt tại Paris bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải thẩm tra bản thảo bằng tiếng Anh từng điểm một.<br /><br />Và bản thảo không phải được đưa ra bởi Nam Việt Nam và Hoa Kỳ mà là bởi Bắc Việt và Hoa Kỳ. Anh có tưởng tượng nỗi điều đó không? Theo logic thông thường Nam Việt Nam và Hoa Kỳ phải thỏa thuận về những điều kiện của dàn xếp hòa bình trước và sau đó Kissinger quay lại với chúng tôi nếu Bắc Việt đưa ra bất kỳ đề xuất trái ngược nào. Nhưng ông ta đã không làm như thế.<br /><br />Thay vào đó, ông ta soạn thảo những điều khoản của hiệp định chung với Bắc Việt và đưa cho tôi xem bằng tiếng Anh. Hiệp định hoà bình sẽ quyết định số phận chúng tôi. Anh có tưởng tượng được tôi cảm thấy như thế nào khi chúng tôi thậm chí không thể nhìn thấy nguyên bản bằng chính ngôn ngữ của chúng tôi?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Nhưng cuối cùng ông cũng nhận được bản tiếng Việt?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Chúng tôi khăng khăng đòi hỏi, đòi hỏi và đòi hỏi và cuối cùng ông ta đồng ý, dù tất nhiên là miễn cưỡng. Và chúng tôi đã phát hiện ra nhiều cạm bẫy. Tôi hỏi Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker “Ai đưa ra bản tiếng Việt?” Họ trả lời “một người Mỹ rất giỏi từ trường Đại học Ngôn ngữ học Quốc tế tại Hoa Kỳ cộng tác với Bắc Việt”. Nhưng không người Mỹ nào có thể hiểu và viết tiếng Việt tốt hơn một người Việt Nam. Và không người Mỹ nào có thể làm việc với Cộng Sản Việt Nam bằng tiếng Việt giỏi hơn chúng tôi. Liệu đó có phải là cách ứng xử danh dự và ngay thẳng của phía đồng minh?<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Các giới chức cấp cao tại Mỹ nói đã từng nghĩ rằng tất cả những gì mà Kissinger theo đuổi là một khoảng thời gian hợp lý giữa việc rút quân Mỹ và sự sụp đổ cuối cùng của Sài Gòn. Kissinger nói trong cuốn sách của mình là điều đó không đúng. Ông nghĩ thế nào?</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Bất kể người Mỹ nói gì, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của Chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel</span><span style="FONT-STYLE: italic">: Kissinger đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy điều đó không đúng.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Người Mỹ cố gắng ép buộc chúng tôi đồng ý bản hiệp định. Nếu chúng tôi đồng ý, họ có thể hãnh diện là đã giải quyết mọi việc bằng một “thoả thuận danh dự”. Họ có thể nói với dân chúng tại nhà rằng: “Chúng tôi đang rút quân, chúng tôi đảm bảo tù binh sẽ được phóng thích”. Và có thể nói với phần còn lại của thế giới rằng: “Chúng tôi đã mang lại hoà bình cho Nam Việt Nam. Bây giờ thì tuỳ thuộc vào người dân Nam Việt Nam. Nếu chính phủ liên hiệp có bị Cộng Sản chi phối thì đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự.”<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Kissinger viết: “Chúng tôi có một nguyên tắc trong đàm phán đó là người Mỹ không phản bội những người bạn của mình”.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> Thôi được, vậy hãy nhìn vào vị thế hiện nay tại Nam Việt Nam, Campuchia và tất cả Đông Dương. Khi chúng tôi đàm phán thỏa thuận hòa bình với những đại diện của Chính phủ Mỹ, chúng tôi thường có cảm giác họ không chỉ chơi trò xỏ lá mà họ còn thật sự là người đáng bị lên án trong hành động.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Ông có bao giờ cảm thấy biết ơn về những gì mà người Mỹ đã giúp đỡ cho đất nước ông? Kissinger nói trong cuốn sách của mình: “đáng giá cao về những gì được giúp đỡ không phải là một đặc điểm của người Việt Nam”.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Ông Thiệu:</span> [Cười] Về những gì mà Kissinger viết trong sách, tôi nghĩ chỉ có người với một tinh thần bị méo mó mới có thể nghĩ như vậy, chỉ có thể xảy ra với một người có tính khí không bình thường. Ông ta ám chỉ trong cuốn sách của mình rằng ông ta sợ người Việt Nam sẽ trả thù những người Mỹ còn ở lại sau khi Washington đã bỏ rơi chúng tôi. Bây giờ và không bao giờ chúng tôi làm điều đó.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">Spiegel:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Cá nhân ông có cảm thấy biết ơn gì không?</span><br /><br />Ông Thiệu: Tôi có thể nói một cách thành thật rằng nếu Chính phủ Mỹ không phản bội chúng tôi và không đâm sau lưng chúng tôi, người dân Việt Nam sẽ cảm thấy rất biết ơn. Sau khi chúng tôi có một cuộc bàn luận căng thẳng với Kissinger về từ ngữ của hiệp định hòa bình, vài thành viên của chính phủ tôi nói rằng sẽ là một ngày may mắn cho chúng tôi nếu Kissinger làm cho Nam Việt Nam bằng như những gì mà ông ta đã làm cho Bắc Việt. Tôi nói với họ nếu ông ta đàm phán một nền hoà bình đích thực với Bắc Việt, ông ta sẽ có cho riêng mình một đài kỷ niệm tại Nam Việt Nam giống như tượng của tướng McArthur tại Nam Hàn. Tiếc thay mọi chuyện đã không diễn ra như vậy.<br /><br />Về hậu quả của hòa bình, tôi nghĩ tốt nhất là để tự người Mỹ phán quyết về những gì mà Kissinger đã làm cho Nam Việt Nam: những trại tập trung, nạn đói kém, hành hạ tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân mất tích trên Thái Bình Dương và nạn diệt chủng còn khủng khiếp và được tiến hành có hệ thống hơn cả nạn diệt chủng tại Campuchia. Kissinger không có lý do gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ta đã mang đến. Đó là mồ chôn của hòa bình.<br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; FONT-WEIGHT: bold">SPIEGEL:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Cảm ơn ông Thiệu đã giành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.</span><br /></div><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Vô Thường</span>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-59828121728031248482010-01-29T14:50:00.003+11:002010-01-29T15:01:24.891+11:00Hiệp định Paris, khúc quanh cuối cùng trong cuộc chiến Việt Nam - Hà Tường Cát<center><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgqpjyITMJcIzAfZqcwWFdg3exy4i9oDPcQglcmftjidaNEOKPZGC2Vnz8uXAOBK1a-L9BXbWzuwMaCsJsWtX6R557obv21lDVC_rt8qn9qnjBm_GTfAqF3jogUYnenbLK481O2r54pi94/s1600-h/b.jpg"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 268px; CURSOR: hand" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432005264289542850" border="0" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgqpjyITMJcIzAfZqcwWFdg3exy4i9oDPcQglcmftjidaNEOKPZGC2Vnz8uXAOBK1a-L9BXbWzuwMaCsJsWtX6R557obv21lDVC_rt8qn9qnjBm_GTfAqF3jogUYnenbLK481O2r54pi94/s400/b.jpg" /></a></center><p align="justify"><strong><em><span style="font-size:85%;">Hà Tường Cát<br /></span></em></strong><br />Trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa, Ngoại Trưởng Trần Văn Lắm ký vào hiệp định tại Hội Nghị Hòa Bình Quốc Tế về vấn đề Việt Nam ngày 2 Tháng Ba, 1973 tại Paris.<br /><br />Ngày này 37 năm trước - 27 tháng 1 năm 1973 - Hiệp định ngừng chiến tại Việt Nam được ký kết ở Paris. Mặc dầu mang danh nghĩa “thỏa hiệp chấm dứt chiến tranh - lập lại hòa bình” nhưng từ căn bản không bên nào tin tưởng vào giá trị của những điều ghi trong văn bản và diễn biến tiếp theo là hòa bình không bao giờ có thật.<br /><br />Sau này Bắc Việt công khai khoe khoang rằng Hiệp Ðịnh Paris chỉ là một bước được tính toán trong toàn bộ chiến lược “giải phóng” miền Nam Việt Nam năm 1975. Tuy nhiên thực tế không đơn giản như vậy, vì lịch sử luôn luôn là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều yếu tố kể cả bất ngờ, khiến cho kết quả cuối cùng không phải dễ dàng định sẵn và các ý kiến nhận định cho đến nay vẫn rất khác biệt.<br /><br />Cuộc đàm phán ở Paris kéo dài hơn nhiều cuộc thương thuyết hòa bình khác chính vì nội dung và ảnh hưởng chính trị là then chốt hơn quân sự. Tổng cộng qua hơn 4 năm đàm phán có 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp kín, 500 buổi họp báo và hàng ngàn cuộc phỏng vấn riêng.<br /><br />Xét cho cùng hòa đàm Paris chỉ là một hình thức giải quyết tạm bợ mà các bên cần phải có chứ không bên nào đạt được phần thắng. Chiến lược vừa đánh vừa đàm không xa lạ qua nhiều cuộc chiến tranh và “điều gì không đoạt được trên chiến trường thì không thể đạt tới ở bàn hội nghị” là một nguyên tắc bất biến. Tại Việt Nam không phía nào có ưu thế chiến ở chiến trường mà chỉ có nhiều chỗ yếu do những hoàn cảnh riêng của mình trong đó đáng kể tới sự thúc bách bởi thời gian.<br /><br />Hòa đàm tại Paris khởi sự tháng 5 năm 1968 với sự tham dự của Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Việt Nam Cộng Hòa, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Vấn đề sơ khởi phải tranh luận suốt mấy tháng đầu là hình dạng cái bàn hội nghị để thể hiện tính cách tham dự của bốn bên nhưng lại chỉ như hai bên. Kết quả đi tới sự chấp thuận bàn hội nghị là một bàn tròn ở giữa nối liền hai bàn dài hai bên. Trong ba năm tiếp theo các bên dùng hội nghị như diễn đàn đấu tranh chính trị. Các phiên họp chính thức sau khi mở màn chỉ còn là tố cáo nhau, tranh luận bằng cách trình bày ý kiến của mình không cần biết đối phương nói gì, lặp đi lặp lại những đòi hỏi không thể giải quyết được, rồi kết thúc mà không đi tới đâu.<br /><br />Thương lượng thật sự chỉ có qua nhiều lần gặp gỡ bí mật giữa Henry Kissinger với Lê Ðức Thọ và những cuộc mật đàm sau này mới được tiết lộ. Hòa đàm 4 bên như vậy thực chất chỉ có 2 bên. Mặt Trận Giải Phóng là công cụ do Bắc Việt trực tiếp điều khiển nên không có vấn đề gì. Còn Việt Nam Cộng Hòa rõ ràng nhiều lúc chỉ đứng ngoài, nhưng phản ứng mạnh mẽ đối với đồng minh Hoa Kỳ ở giai đoạn cuối cùng lại có tác dụng tích cực, xác định được vị thế và vai trò không thể phủ nhận của mình.<br /><br />Qua ba năm, giữa quá trình đàm phán, tháng 3 năm 1972, Bắc Việt bất ngờ huy động lực lượng 120,000 bộ đội chính quy cùng nhiều đơn vị địa phương, du kích, và đưa ra chiến trường những vũ khí nặng từ trọng pháo đến xe tăng, hỏa tiễn, mở cuộc tấn công Lễ Phục Sinh (Eastern offensive) hay trận chiến Mùa Hè Ðỏ Lửa. Sau thắng lợi ban đầu, cuối cùng cả ba mũi tấn công chính - Quảng Trị, Kontum, An Lộc - đều bị bẻ gãy. Thất bại hoàn toàn của chiến dịch quy mô này khiến Bắc Việt tiêu tan ảo vọng tạo một chiến thắng quân sự quan trọng hỗ trợ cho cuộc thương lượng, cũng như để chính quyền Nixon nản lòng trong ý chí tích cực ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa. Ngược lại, Hoa Kỳ gia tăng mức can thiệp quân sự qua việc mở rộng những cuộc oanh tạc Bắc Việt, thả mìn phong tỏa bờ biển, và trên chiến trường miền Nam yểm trợ mạnh mẽ bằng phi pháo và hải pháo.<br /><br />Trận chiến năm 1972 thể hiện được uy tín của quân lực cùng khả năng tồn tại của chính thể Việt Nam Cộng Hòa, nhưng mặt khác cũng cho thấy nhược điểm của quân đội Việt Nam Cộng Hòa là chỉ chiến đấu có hiệu quả nếu đầy đủ hỏa lực hùng hậu. Quân đội Cộng Sản Bắc Việt hiểu điều đó nên khi biết chắc là Việt Nam Cộng Hòa không còn sức mạnh đó, họ đã vững tin vào sự thành công khi mở cuộc tổng tấn công năm 1975 bằng lực lượng áp đảo hơn.<br /><br />Trong tình hình quân sự không như mong muốn và trước sự phát triển bất ngờ các mối quan hệ ngoại giao mới giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc và Nga, Bắc Việt thấy cần một sự khai thông tại hòa đàm Paris để tính giải pháp khác cho ý đồ tương lai. Họ chấp nhận một nhượng bộ căn bản là không đòi hỏi sự từ chức của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trước khi chấm dứt chiến tranh, lập trường mà Cộng Sản Bắc Việt đã khăng khăng duy trì suốt mấy năm từ khi đi vào đàm phán. Ngược lại phía Hoa Kỳ không tuyệt đối đòi hỏi việc triệt thoái khoảng 160,000 bộ đội Bắc Việt đang ở trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam.<br /><br />Do đó vào tháng 10 năm 1972 cuộc mật đàm giữa Henry Kissinger và Lê Ðức Thọ đã đi tới kết quả là một dự thảo sơ bộ về cuộc ngừng bắn tại chỗ, còn được gọi là ngung chiến “da beo”, nghĩa là quân đội bên nào giữ nguyên vị trí hiện hữu cho tới khi đi vào tiến trình giải quyết sau này.<br /><br />Hoa Kỳ và Bắc Việt đều hy vọng hiệp định sẽ được ký kết ngay sau đó. Nhưng bản thỏa hiệp dự thảo đã gặp sự chống đối mạnh mẽ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vì nhiều điểm Việt Nam Cộng Hòa không được tham khảo ý kiến trước. Qua các cuộc thảo luận căng thẳng tại Sài Gòn trực tiếp với Tổng Thống Thiệu và Bí Thư Hoàng Ðức Nhã, Kissinger phải đồng ý chuyển cho Bắc Việt một bản đề nghị 96 điểm yêu cầu sửa đổi. Bắc Việt giải thích yêu cầu này là “hành động bội tín”, không chấp thuận cứu xét và các cuộc thương lượng giậm chân tại chỗ cho đến tháng 12 thì hoàn toàn bế tắc, Kissinger và Lê Ðức Thọ ngưng các cuộc gặp gỡ.<br /><br />Ngày 14 tháng 12 năm 1972, Tổng Thống Nixon gởi một tối hậu thư cho Cộng Sản Bắc Việt yêu cầu tái tục đàm phán nghiêm chỉnh trong vòng 72 giờ, nếu không sẽ phải nhận lãnh hậu quả nặng nề. Bắc Việt không có đáp ứng gì cụ thể và ngày 18 tháng 12 không lực Hoa Kỳ được lệnh mở chiến dịch Linebacker Two. Ðây là đợt oanh kích không quân dữ dội nhất thời kỳ chiến tranh Việt Nam, trong vòng 12 ngày khoảng 3,000 phi xuất máy bay chiến đấu và B-52 trút xuống 40,000 tấn bom, lần đầu tiên thả bom trải thảm ngay thành phố Hà Nội và Hải Phòng.<br /><br />Bốn ngày trước khi chấm dứt chiến dịch Linebacker Two, Bắc Việt thông báo với Hoa Kỳ là sẽ hòa đàm trở lại ngay khi ngừng oanh tạc. Ngày 8 tháng 1 năm 1973, Kissinger gặp Lê Ðức Thọ tiếp tục đàm phán, một số điều khoản được sửa đổi tuy nhiên căn bản vẫn là như cũ và những ngôn từ mới được thay thế trong hiệp định thường có tính cách mơ hồ mà mỗi bên đều tìm cách diễn giải theo quan điểm của mình. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa dù không đồng ý hoàn toàn, vẫn lâm vào tình thế không thể khước từ thêm nữa và Hiệp Ðịnh Chấm Dứt Chiến Tranh Lập Lại Hòa Bình được ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 giữa 4 bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Việt Nam Cộng Hòa và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.<br /><br />Nhiều năm sau này Bắc Việt vẫn giải thích rằng việc trở lại đàm phán là do Hoa Kỳ bị đánh bại trong cuộc oanh tạc mùa Giáng Sinh năm 1972. Như thông lệ, Hà Nội phóng đại tổn thất của không lực Hoa Kỳ, loan báo bắn hạ tới 30 chiếc B-52. Ngược lại, Kissinger cũng không xác nhận dư luận tin rằng Bắc Việt phải chịu lép vì cuộc oanh tạc nặng nề. Trong một buổi họp báo sau khi ký hiệp định, được một phóng viên hỏi lại chuyện này, Kissinger chỉ đáp lơ lửng theo kiểu ngoại giao: “Ðã có thỏa thuận hồi tháng 10 nhưng cần một số sửa đổi, sau đó có cuộc oanh tạc và thảo luận lại, bây giờ hiệp định đã được ký kết”.<br /><br />Bản hiệp định gồm 9 chương 23 điều được tất cả các bên giải thích theo quan điểm và đều coi như là thắng lợi.<br /><br />Hoa Kỳ đã quyết định bằng mọi cách chấm dứt sự can dự ở Việt Nam nên Hiệp Ðịnh Paris chỉ là một hình thức rút lui trong danh dự, nhận về các tù binh chiến tranh, và trên danh nghĩa đã tạo lập được hòa bình, bảo vệ sự tồn tại chính nghĩa của đồng minh Việt Nam Cộng Hòa. Còn thất bại trong việc bảo đảm tương lai cho miền Nam Việt Nam không nằm trong chủ trương tối hậu của Hoa Kỳ.<br /><br />Trong ý đồ lâu dài của Bắc Việt quyết tâm chiếm toàn thể miền Nam, hòa bình không là mục tiêu và Hiệp Ðịnh Paris chỉ là một bước ngưng nghỉ để chuẩn bị lực lượng. Phan Văn Sung, một thành viên trong phái đoàn Bắc Việt tại hòa đàm Paris, 32 năm sau (2005) trả lời phỏng vấn của báo Quân Ðội Nhân Dân, còn nói rằng thắng lợi về phía Bắc Việt vì buộc Hoa Kỳ phải rút quân không điều kiện. Ðiểm quan trọng nhất theo lời ông là Ðiều 1, Chương 1 của hiệp định: “Hoa Kỳ phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã được công nhận bởi Hiệp Ðịnh Geneva về Việt Nam”. Hiệp Ðịnh Geneva năm 1954 nói rằng vĩ tuyến 17 chỉ là ranh giới đình chiến và hai miền Nam Bắc sẽ thống nhất qua tổng tuyển cử, như vậy, sự hiện diện của bộ đội Bắc Việt tại miền Nam không mang tính cách là quân đội ngoại quốc xâm lăng. Thoái bộ của Bắc Việt là phải công nhận chế độ Việt Nam Cộng Hòa, nhưng có điều kiện về sự hình thành Hội đồng Hòa giải Hòa hợp Dân tộc để đi tới thống nhất. Tuy nhiên Bắc Việt chỉ xem đòi hỏi ấy như một lý thuyết suông chứ chẳng tin vào kết quả khi họ vẫn chủ trương sẽ đánh chiếm miền Nam bằng vũ lực.<br /><br />Ðiểm yếu nhất đối với Việt Nam Cộng Hòa là Hiệp Ðịnh Paris không quy định cụ thể sự triệt thoái quân đội Bắc Việt khỏi lãnh thổ miền Nam. Chính quyền của Tổng Thống Thiệu luôn luôn coi hai miền Nam Bắc là hai quốc gia độc lập, đòi hỏi sự tôn trọng ranh giới phi quân sự ở vĩ tuyến 17 và như thế bộ đội Bắc Việt là lực lượng ngoại nhập phải rút đi. Tuy vậy nếu như điều khoản này có được xác định bằng văn bản thì trong thực tế cũng chẳng có hiệu quả bao nhiêu với phương cách lừa đảo thông thường của phía Cộng Sản. Thắng lợi duy nhất đối với Việt Nam Cộng Hòa là sự công nhận giá trị hợp pháp trên thực tế của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông Thiệu trước đó đã khẳng định lập trường 4 Không: “Không chấp nhận, không thương lượng, không liên hiệp và không nhượng đất cho Cộng Sản”. Trong những điều kiện ấy, Hiệp Ðịnh Paris nhìn nhận nhưng không bảo đảm gì cho sự tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa và hậu quả sẽ là phải có những nỗ lực hết sức khó khăn vì chiến tranh không thể dứt và cuộc chiến đấu không còn được đồng minh hỗ trợ.<br /><br />Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam chỉ là bộ phận của Cộng Sản Bắc Việt, Hiệp Ðịnh Paris công nhận giá trị cho họ là một thực thể, ngoài ra họ chẳng có gì khác để được hay để mất.<br /><br />Hiệp Ðịnh Paris xác định lệnh ngừng bắn có hiệu lực từ 8 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, giờ Sài Gòn. Chỉ trong ít ngày tiếp sau, niềm hy vọng của dân chúng về hòa bình đã mau chóng trở thành ảo tưởng. Cả hai phía Cộng Sản và Quốc Gia đều đã chuẩn bị tiến hành và phòng chống cuộc chiến giành dân lấn đất. Cuộc xung đột vào phút chót không ngừng vào giờ ngưng bắn như hiệp định đòi hỏi mà kéo dài cho đến đầu tháng 2. Theo Ðại Tá William E. Le Gro trong cuốn “Việt Nam từ ngưng bắn đến đầu hàng” xuất bản năm 1981 thì vào thời điểm ấy quân lực Việt Nam Cộng Hòa, chính quy cũng như địa phương quân và dân vệ, mạnh hơn nhiều so với phía Cộng Sản. Không lượng định đúng khả năng của đối phương, quân đội và du kích Cộng Sản chỉ chiếm được 23 ấp trong cuộc tấn công vào 400 ấp và chịu tổn thất nhân mạng tới 5,000. Ngược lại thì Việt Nam Cộng Hòa cũng thất bại ở một vài nơi mà tiêu biểu là cuộc đột kích của Thủy quân Lục chiến vào Cửa Việt gần vùng phi quân sự.<br /><br />Chiến tranh tiếp diễn và leo thang trong những tháng năm sau đó và người dân Việt thật sự chưa bao giờ được sống hòa bình cho đến ngày miền Nam sụp đổ. Người dân miền Bắc có may mắn hơn vì thoát khỏi tai họa trực tiếp của chiến tranh nhưng vẫn còn phải gánh chịu gian khổ của một hậu phương bị ép buộc dành nhiều nỗ lực hỗ trợ cho tiền tuyến.<br /><br />Cuộc thương lượng gọi là hòa đàm tại Paris về thực chất không đem đến điều gì tốt đẹp như mong mỏi cho cuộc nội chiến khốc liệt 15 năm, mà chỉ là một khúc quanh chính trị và cuối cùng đưa tới kết thúc đầy thất vọng cho dân chúng cả hai miền Nam Bắc. </p><center><b>ooOoo</b></center><ul><span style="font-size:180%;color:#000066;">Ai cũng ký, nhưng chẳng ai tin sẽ thi hành</span></ul><center><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1pW01eXwCJapzJ-BUimNZZYkZ0p5DTCL9cZ7Dy9GfjFmps7OsWHt_VQQggVi-QN8YJSEs_DqWJSNshy_aKcrWZYGXtivvrjoHp_w-io_W80_m3OWDjop8nlWt7LFXv9LRd82IFAZGEuQ/s1600-h/Bui_Diem.jpg"><img style="WIDTH: 300px; HEIGHT: 225px; CURSOR: hand" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5432005261214794562" border="0" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1pW01eXwCJapzJ-BUimNZZYkZ0p5DTCL9cZ7Dy9GfjFmps7OsWHt_VQQggVi-QN8YJSEs_DqWJSNshy_aKcrWZYGXtivvrjoHp_w-io_W80_m3OWDjop8nlWt7LFXv9LRd82IFAZGEuQ/s400/Bui_Diem.jpg" /></a></center><center><em><span style="font-size:85%;color:#000066;">Cựu Đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ, ông Bùi Diễm</span></em></center><p align="justify">Ba mươi bảy năm trước, vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, hiệp định ngừng chiến tại Việt Nam được ký kết tại Paris. Một trong những người tham dự ngay từ đầu lúc khởi sự các cuộc đàm phán năm 1968 là ông Bùi Diễm, lúc bấy giờ là đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ và là cố vấn Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu về hồ sơ hòa đàm Paris. Nhân kỷ niệm biến cố lịch sử này, ông Bùi Diễm, hiện sống tại Maryland, dành cho Người Việt cuộc phỏng vấn sau đây.<br /><br /><em>-<strong> ÐQAThái:</strong> Thưa ông, Hiệp Ðịnh Paris 1973 mang danh nghĩa “thỏa hiệp chấm dứt chiến tranh - lập lại hòa bình” nhưng nhiều người cho rằng, ngay từ căn bản, không bên nào tin tưởng vào giá trị của những điều ghi trong Hiệp định. Xin nghe ý kiến của ông?<br /></em><br />- <strong>Ông Bùi Diễm:</strong> Phải nói rằng, riêng về phía Việt Nam Cộng Hòa thì biết rõ rằng là khó lòng Cộng Sản chịu thi hành đứng đắn Hiệp Ðịnh Paris. Còn chính phủ Hoa Kỳ ngay sau khi ký bản hiệp định, họ lập tức trở về với những vấn đề nội bộ của họ và nếu họ có nói gì thì cũng chỉ là những lời hứa hẹn bề ngoài mà thôi. Vì lúc bấy giờ Tổng Thống Nixon bị nhiều khó khăn vì vụ Watergate, thành thử ngay cho dù chính quyền Nixon có muốn thi hành những lời đã hứa với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì cũng không làm được nữa.<br /><br />Tóm lại, không riêng gì chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, không riêng gì chính phủ Mỹ, mà tất cả những nước khác ký vào bản hiệp định, không ai nghĩ rằng bản văn này được thi hành đứng đắn. Không ai tin tưởng như vậy.<br /><br /><em>- <strong>ÐQAThái:</strong> Thưa ông, phải chăng ý đồ của Washington là muốn rút chân khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam và phó mặc số phận của Việt Nam Cộng Hòa?<br /></em><br />- <strong>Ông Bùi Diễm:</strong> Ðiều đó thì chúng ta đã thấy rõ từ trước rồi. Trong các bản phúc trình gửi Tổng Thống Thiệu, tôi trình bày nhiều lần rằng đã đến lúc quyền lợi của người Hoa Kỳ không còn giống như quyền lợi của Việt Nam Cộng Hòa nữa, và khi những quyền lợi của họ không còn đi đôi với quyền lợi của dân tộc Việt Nam thì chúng ta phải thận trọng trong việc cư xử với người Mỹ.<br /><br /><em>- <strong>ÐQAThái:</strong> Trước khi ngồi vào bàn hội nghị, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lúc nào cũng cương quyết giữ lập trường “Bốn không,” trong đó có điểm là không bao giờ chấp nhận nói chuyện với cái gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.” Nhưng năm 1968, bốn thành phần của hội nghị Paris gồm có Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Cộng Sản Bắc Việt), và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Phải chăng lúc đó ông Thiệu có một bước lùi bất lợi cho miền Nam?</em><br /><br />- <strong>Ông Bùi Diễm:</strong> Trước khi cử phái đoàn đi Paris dự hội đàm, đã có những sự điều đình gay gắt xảy ra giữa chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và chính phủ Hoa Kỳ; và giữa Tổng Thống Thiệu và ông đại sứ Mỹ là Bunker.<br /><br />Tổng thống ông Thiệu chỉ thị cho tôi phải tới Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Tòa Bạch Ốc để đặt vấn đề một cách rõ rệt về “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.”<br /><br />Tôi còn nhớ, khi ông Nixon đắc cử tổng thống, vào một buổi sáng Mùa Ðông giá lạnh ở thủ đô Hoa-Thịnh-Ðốn, một ông cụ già bấm chuông gõ cửa đi vào cửa tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa, tôi đi xuống thì hóa ra là ông Dirksen, lãnh tụ đảng Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Ông đến gặp tôi và nói với tôi rằng, ông nhân danh hai vị tổng thống, Tổng Thống Johnson và Tổng thống mới đắc cử Nixon nói với ông Dicksen rằng chính phủ Hoa Kỳ không chấp nhận Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tuy nhiên đứng trên phương diện mở cuộc hòa đàm thì Hoa Kỳ đưa ra mô thức phe của hai phe, tức là phe của Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ, và phe của Bắc Việt và Việt Cộng - tức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.<br /><br />Tôi nghĩ, có lẽ vì có sự cam đoan đó mà Tổng Thống Thiệu chấp nhận mô thức hai đó và sau đó mới có sự có mặt của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và chính phủ Lâm thời do những bà như Nguyễn Thị Ðịnh và những phần tử thân Cộng tham dự hội đàm Paris.<br /><br /><em>- <strong>ÐQAThái:</strong> Thưa ông, nhiều cuốn sách do tác giả Mỹ viết cho rằng, ông ít nhiều có dính vào “âm mưu” giúp cho ông Nixon thắng cử; xin được nghe ý kiến của ông về vấn đề này?<br /></em><br />- <strong>Ông Bùi Diễm:</strong> Cuối năm 1968 là thời điểm lúc sắp sửa đi vào cuộc điều đình Paris, và cũng là lúc cuộc tranh cử giữa ông Nixon và ông Humphrey đi vào giai đoạn quyết liệt. Và chiến tranh Việt Nam là đề tài lớn trong cuộc tranh cử tổng thống cuối năm 1968.<br /><br />Khi đó, với tư cách là đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa, tôi tiếp xúc với cả hai ông Humphrey lẫn ông Nixon. Việc tôi tiếp xúc với ông Nixon, tôi đều nói cho chính quyền Hoa Kỳ biết chứ không phải tôi giấu diếm, nhưng về sau có hàng chục cuốn sách viết về vấn đề này và cho là những cơ quan an ninh của Hoa Kỳ đã chụp lấy những mật điện của tôi gửi về cho ông Tổng Thống Thiệu; và CIA cũng như FBI đã được lệnh nghe lén những điện thoại của tòa đại sứ và của cá nhân tôi để xem tôi có làm việc gì giúp cho ông Nixon hay không.<br /><br />Người ta nói đến hai bản điện văn: một bản điện văn ngày 23 tháng 10 năm 1968 tôi gởi về cho ông Thiệu và viết bằng tiếng Anh để tránh những lầm lỗi về dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng khi viết bằng tiếng Việt. Trong điện văn, tôi nói rằng những người bạn Hoa Kỳ ở thủ đô người ta ngại rằng tổng thống sẽ có một thái độ mềm dẻo hơn trước trong vấn đề đối xử với miền Bắc.<br /><br />Ðấy là câu nguyên văn tôi viết gửi về cho ông Thiệu. Sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ chừng 4 ngày, tôi lại có một mật điện khác nói với ông Tổng Thống Thiệu rằng tôi vẫn thường xuyên liên lạc với bộ tham mưu của ông Nixon. Về sau tôi được biết cơ quan của Hội đồng An ninh Quốc gia của Mỹ đã lấy những mật điện đó ra và đưa cho ông Tổng Thống Johnson và chính quyền Johnson cho rằng tôi đã can thiệp vào nội bộ của chính phủ Hoa Kỳ và làm lợi cho ông Nixon. Việc đó là một việc lớn trong chính phủ Johnson và bộ trưởng quốc phòng lúc bấy giờ là ông Clark có đưa vấn đề ra với ông Johnson, nhưng về sau họ đi đến kết luận rằng không lẽ đưa ra một việc chứng tỏ rằng chính phủ Hoa Kỳ nghe lén điện thoại của một đại sứ thì việc đấy không lấy gì làm đẹp đẽ cho lắm, cho nên họ yểm. Chính vì thế mà có lời đồn đại như ông vừa đề cập.<br /><br /><em>- <strong>ÐQAThái</strong>: Một số người ngoại giao và lãnh đạo các nước đưa ra một lời ta thán chua chát nói rằng “làm kẻ thù của Mỹ thì được Mỹ đối xử một cách kính trọng, làm đồng minh của Mỹ thì có ngày chết”; qua kinh nghiệm của Việt Nam Cộng Hòa, ông rút ra được bài học gì?<br /></em><br />- <strong>Ông Bùi Diễm:</strong> Tôi nghĩ rằng bài học của chúng ta qua cuộc chiến tranh Việt Nam là chúng ta phải một hiểu rõ chính trị của Hoa Kỳ như thế nào, tính cách phức tạp của chính trị Hoa Kỳ ra làm sao để mà mình hiểu biết rõ khi nào họ có cùng quyền lợi để có thể đi với mình. Và cũng có lúc mình thấy rõ quyền lợi của họ không đi đôi với quyền lợi của mình nữa thì điều đó phải nhận thức cho rõ rệt. Và một kinh nghiệm thứ hai nữa là không bao giờ mình để quyền lợi tối thượng của mình bị ràng buộc vào những nước bên ngoài, đó là điều tối kỵ. Tất cả lịch sử của chiến tranh Việt Nam đã chứng minh điều đó.<br /><br /><em>- <strong>ÐQAThái:</strong> Cám ơn ông đã trả lời phỏng vấn của Người Việt.</em><br /><br /><br /><br /></p>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-12609731658371847782010-01-17T11:16:00.002+11:002010-01-17T11:24:54.396+11:00Hoàng Sa Tổ Quốc Ghi Ơn Những Anh Hùng Tử Sĩ Việt Nam Cộng Hòa<center><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JDGjhsNKI/AAAAAAAAHjY/mVFWNanRVPo/s1600-h/tusihoangsa.jpg"><img style="WIDTH: 500px; HEIGHT: 318px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5427474280829695138" border="0" alt="" src="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JDGjhsNKI/AAAAAAAAHjY/mVFWNanRVPo/s400/tusihoangsa.jpg" /></a><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JDf89A9oI/AAAAAAAAHjg/KKSWgKYQpY4/s1600-h/chiensihoangsa.jpg"><img style="WIDTH: 550px; HEIGHT: 99px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5427474717151917698" border="0" alt="" src="http://4.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JDf89A9oI/AAAAAAAAHjg/KKSWgKYQpY4/s400/chiensihoangsa.jpg" /></a></center><br /><ul><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">1. HQ.Th/Tá:</span> Ngụy Văn Thà<br />63A/700.824<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">2. HQ.Đ/Úy</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Thành Trí<br />61A702.714<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">3. ThS.1/TP:</span><span style="FONT-WEIGHT: bold"> </span>Châu<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">4. TS /QK: </span>Nguyễn Văn Tuấn<br />71A700.206<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">5. TS /GL</span>: Vương Thương<br />64A700.777<br /><br /><b>6. TS /TP:</b> Võ Văn Nam<br />71A705.697<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">7. TS /VCh</span>: Phan Ngọc Đa<br />71A703.001<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">8. ThS ĐT</span>: Trần VănThọ<br />71A706.845<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">9. TT ĐT</span>: Thanh<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">10. HQ.Tr/Úy</span>: Vũ Văn Bang<br />66A/702.337<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">11. HQ.Tr/Úy</span>: Phạm Văn Đồng<br />67A/701.990<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">12. HQ.Tr/Úy:</span><span style="FONT-WEIGHT: bold"> </span>Huỳnh Duy Thạch<br />63A/702.639<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">13. HQ.Tr/Úy:</span><span style="FONT-WEIGHT: bold"> </span>Ngô Chí Thành<br />68A/702.453<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">14. HQ.Tr/Úy</span>: Vũ Đình Huân<br />69A/703.058<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">15. THS.1/CK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Phan Tân Liêng<br />56A/700.190<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">16. THS.1/ĐK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Võ Thế Kiệt<br />61A/700.579<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">17. THS. /VC</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Hoàng Ngọc Lê<br />53A/700.030<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">18. TRS.1/VT</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Phan Tiến Chung<br />66A/701.539<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">19. TRS. /TP</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Huỳnh Kim Sang<br />70A/702.678<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">20. TRS. /TX</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Lê Anh Dũng<br />70A/700.820<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">21. TRS. /ĐK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Lai Viết Luận<br />69A/700.599<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">22. TRS. /VC</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Ngô Tấn Sơn<br />71A/705.471<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">23. TRS. /GL</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Ngô Văn Ơn<br />69A/701.695<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">24. TRS. /TP</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Thành Trong<br />72A/700.861<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">25. TRS. /TP</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Vinh Xuân<br />70A/703.062<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">26. TRS. /CK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Phạm Văn Quý<br />71A/703.502<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">27. TRS. /CK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Tấn Sĩ<br />66A/701.761<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">28. TRS. /CK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Trần Văn Ba<br />65A/700.365<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">29. TRS. /ĐT</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Quang Xuân<br />70A/703.755<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">30. TRS. /BT</span>: Trần Văn Đàm<br />64A/701.108<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">31. HS.1 /VC</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Lê Văn Tây<br />68A/700.434<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">32. HS.1 /VC:</span><span style="FONT-WEIGHT: bold"> </span>Lương Thành Thu<br />70A/700.494<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">33. HS.1 /TP</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Quang Mén<br />65A/702.384<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">34. HS.1 /VC</span>: Ngô Sáu<br />68A/700.546<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">35. HS.1 /CK</span>: Đinh Hoàng Mai<br />70A/700.729<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">36. HS.1 /CK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Trần Văn Mông<br />71A/703.890<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">37. HS.1 /DV</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Trần Văn Định<br />69A/700.627<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">38. HS /VC</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Trương Hồng Đào<br />71A/704.001<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">39. HS /VC</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Huỳnh Công Trứ<br />71A/701.671<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">40. HS /GL</span>: Nguyễn Xuân Cường<br />71A/700.550<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">41. HS /GL</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Văn Hoàng<br />72A/702.678<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">42. HS /TP</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Phan Văn Hùng<br />71A/706.091<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">43. HS /TP</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Văn Thân<br />71A/702.606<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">44. HS /TP</span>: Nguyễn Văn Lợi<br />62A/700.162<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">45. HS /CK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Trần Văn Bây<br />68A/701.244<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">46. HS /CK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Văn Đông<br />71A/703.792<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">47. HS /PT</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Trần Văn Thêm<br />61A/701.842<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">48. HS /CK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Phạm Văn Ba<br />71A/702.200<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">49. HS /DK</span>: Nguyễn Ngọc Hoà<br />71A/705.756<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">50. HS /DK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Trần Văn Cường<br />72A/701.122<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">51. HS./PT</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Văn Phương<br />71A/705.951<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">52. HS /PT</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Phan Văn Thép<br />70A/703.166<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">53. TT.1 /TP</span>: Nguyễn Văn Nghĩa<br />72A/703.928<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">54. TT.1 /TP</span>: Nguyễn Văn Đức<br />73A/701.604<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">55. TT.1 /TP</span>: Thi Văn Sinh<br />72A/703.039<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">56. TT.1 /TP</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Lý Phùng Quý<br />71A/704.165<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">57. TT.1 /VT</span>: Phạm Văn Thu<br />70A/702.198<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">58. TT.1./PT</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Hữu Phương<br />73A/702.542<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">59. TT.1 /TX:</span><span style="FONT-WEIGHT: bold"> </span>Phạm Văn Lèo<br />73A/702.651<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">60. TT.1 /CK:</span><span style="FONT-WEIGHT: bold"> </span>Dương VănLợi<br />73A/701.643<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">61. TT.1 /CK</span>: Châu Tuỳ Tuấn<br />73A/702.206<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">62. TT.1 /DT:</span><span style="FONT-WEIGHT: bold"> </span>Đinh Văn Thục<br />71A/704.487<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">HQ. 4<br /><br />HQ Th/Úy: </span>Nguyễn Phúc Xá<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">Tr. Khẩu 20<br /><br />HS1/VC</span>: Bùi Quốc Danh<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">Xạ Thủ</span><br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">Biệt-Hải</span><br /><br />Nguyễn Văn Vượng<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold"><span style="COLOR: rgb(0,0,102)">Xung Phong Tiếp Đạn</span></span><br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">HQ.5<br /><br />HQ Tr/Úy: </span>Nguyễn Văn Đồng<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">ThS/ĐT</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Phú Hào<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">TS1TP</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Đình Quang<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">HQ.16</span><br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">TS/ĐK</span>: Xuân<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">HS/QK</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Nguyễn Văn Duyên<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">Người-Nhái</span><br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">Tr/Úy NN</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>LêVăn Đơn<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">Tr. Toán HS/NN: </span>Đỗ Văn Long<br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102); FONT-WEIGHT: bold">TS/NN</span><span style="FONT-WEIGHT: bold">: </span>Đinh Hữu Từ</ul><center><span style="COLOR: rgb(0,0,102);font-size:180%;" >Văn Tế Anh Hùng Tử Sĩ VNCH Hoàng Sa</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">30 năm ngày giỗ Trận hải chiến Hoàng Sa<br />19 Tháng 1 Năm 1974</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Đây Hoàng Sa. Đây Hoàng Sa</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trận hải chiến lẫy lừng trong lịch sử</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Bảo vệ quốc gia - Vẹn toàn lãnh thổ</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Vinh quang thay - Hải lực Việt oai hùng</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Giữa biển khơi, bao chiến sĩ hy sinh</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Máu tô thắm dệt thành trang hùng sử</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Ba mươi năm xưa</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Một ngày rực lửa</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trung Cộng ngang tàng</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Xua chiến hạm tính nuốt trôi đảo Việt</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Nào Soái Hạm, Trục Lôi, Hộ Tống</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Nào Phi Tiễn Đĩnh, nào Hải Vận Hạm chở quân</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Tiến ầm ầm, dậy sóng biển Đông</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hải đội xung kích Hải Quân ta</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trực chỉ Hoàng Sa</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Quần đảo hoang sơ, ẩn hiện khói sương mờ</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Nằm án ngữ nơi bao lơn nước Việt</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Lãnh hải xa, bao đời ông cha ta trấn thủ</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Bia đá rành rành, văn bản vẫn còn ghi</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Thế mà nay, quân xâm lược rình mò</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Giống cuồng khấu, ôm giấc mơ Nam tiến</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Ta sẵn sàng nghênh chiến</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Dàn đội hình quần thảo một phen</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Quyết không hổ danh</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hậu duệ Ngô Quyền, Trần Quốc Tuiấn</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Lực lượng ta:</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trần Khánh Dư Khu Trục Hạm</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trần Bình Trọng, Lý Thường Kiệt Tuần Dương Hạm</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Nhật Tảo Hộ Tống Hạm oai phong</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Biển động sóng cuồng</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Súng gầm khạc lửa</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Chiến hạm địch quay cuồng bốc cháy</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Bộ Tham Mưu tan xác banh thây</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Đô Đốc, Tá, Úy, Hạ Sĩ Quan, Đoàn Viên</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Thương vong vô số kể</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Địch cố thoát vòng vây</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Điên cuồng chống trả</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hộ Tống Hạm Nhật Tảo trúng pháo địch</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Lửa cháy bùng thượng từng kiến trúc</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Ổ súng ngả nghiêng</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Đài chỉ huy tan nát</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trung Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Dáng dấp thư sinh - Chỉ huy quyết liệt</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Dạn dầy hải nghiệp - Sói biển phong sương</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Bị trọng thương, quyết theo tầu vào lòng biển</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Thiếu Tá Hạm Phó Nguyễn Thành Trí</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trọng thương nhưng tinh thần bất khuất</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Xin được chết theo tầu</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hạm trưởng lắc đầu:</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">''Anh phải đi</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Xuồng đào thoát cần một vị chỉ huy</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hãy để một mình tôi ở lại''</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Ôi khẳng khái</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Những anh hùng biển cả</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">32 Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên đã vị quốc vong thân.</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Chiến sĩ Hải Quân</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Kiên cường bắn tới viên đạn cuối</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trước khi chìm vào lòng biển Mẹ mênh mông</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Ngày hôm nay, 19 tháng Giêng năm 2004</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Nhớ ngày các anh em đã xả thân vì Tổ Quốc</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Lũ chúng tôi, bạn bè cùng trang lứa</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Quân chủng Hải Quân, tình chiến hữu năm xưa</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trước bàn thờ bài vị trang nghiêm</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Ba mươi năm ngày giỗ trận</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Thắp nén nhang thơm tưởng niệm</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Dâng ly rượu lễ chí thành</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Cúi mong các bạn hiển linh</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hồn thiêng về đây chứng giám</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Xin được nghiêng mình vinh danh những anh linh tử sĩ oai hùng:</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hải Quân Trung Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hải Quân Thiếu Tá Hạm Phó Nguyễn Thành Trí</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hải Quân Trung Úy Vũ Văn Bang</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trung Úy Cơ Khí Ngô Chí Thành</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trung Úy CK Hàng Hải Thương Thuyền Huỳnh Duy Thạch</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hải Quân Trung Úy Vũ Đình Huân</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hải Quân Trung Úy Nguyễn Văn Đông</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hải Quân Thiếu Úy Lê Văn Đơn</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Một Hải Quân Thiếu Úy vô danh</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hải Quân Thiếu Úy Nguyễn Phúc xạ</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Thượng Sĩ Quản Nội Trưởng Châu</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Thượng Sĩ Vận Chuyển Lễ</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trung Sĩ Cơ Khí Nguyễn Tấn Sĩ</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trung Sĩ Thám Xuất Lê Anh Dũng</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trung sĩ Điện Tử Trung</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trung Sĩ Giám Lộ Vương Thương</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trung Sĩ Quản Kho Tuấn</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trung Sĩ Trọng Pháo Nam</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hạ sĩ Vận Chuyển Lê Văn Tây</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hạ Sĩ Trọng Pháo Trứ</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hạ sĩ Trọng Pháo Hùng</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hạ sĩ Giám Lộ Ngô Văn Ơn</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hạ sĩ Vận Chuyển Trứ</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hạ Sĩ Nguyễn Thành Danh</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hạ Sĩ Quản Kho Nguyễn Văn Duyên</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hạ sĩ Đỗ Văn Long</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Thủy thủ Trọng Pháo Đức</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Thủy thủ Điện Tử Thanh</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Thủy thủ Trọng Pháo Thi Văn Sinh</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Thủy thủ Trọng Pháo Mến</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Thủy thủ Cơ Khí Đinh Hoàng Mai</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Và hai mươi sáu chiến hữu Hải Quân mất tích</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Nhớ chư linh xưa</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Tung hoành dọc ngang - Biển Đông vùng vẫy</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Lướt sóng kình ngư - Giữ gìn lãnh hải</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hỡi ơi</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Nào ngờ biển Đông sóng dậy</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hải âu gẫy cánh trùng dương</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Các anh đi</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Để nhớ để thương</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Cho mẹ, cho cha, cho vợ, cho con</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Cho bạn bề các cấp</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Gương tuẫn quốc, muôn đời ghi công nghiệp</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Lòng hy sinh, sáng mãi đến ngàn thu</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Trước bàn thờ</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Đèn nến lung linh</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hương trầm ngào ngạt</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Hồn linh thiêng</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">về chứng giám lòng thành</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Con Rồng cháu Lạc hy sinh</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Xứng danh Liệt Tổ, Liệt Tông</span><br /><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(0,0,102)">Tổ Quốc muôn đời ghi nhớ</span><br /><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102)">Cung DuyThượng Hưởng</span><br /><br /><span style="font-size:85%;"><span style="COLOR: rgb(0,0,102)">(Trần Quán Niệm và Phạm Tứ Lang hợp soạn Ngày 1 tháng 1 năm 2004)</span></span><br /><br /><span style="font-size:85%;"><span style="FONT-STYLE: italic; COLOR: rgb(204,204,204)">http://hqvnch.net/default.asp?id=909&lstid=4</span></span><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JGplAiG8I/AAAAAAAAHkA/kMQ-OcuoyuU/s1600-h/havanngcc.jpg"><img style="WIDTH: 440px; HEIGHT: 500px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5427478181057797058" border="0" alt="" src="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JGplAiG8I/AAAAAAAAHkA/kMQ-OcuoyuU/s400/havanngcc.jpg" /></a><br /><span style="COLOR: rgb(0,0,102);font-size:85%;" >Hà Văn Ngạc</span></center><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify">Sự tranh chấp về chủ quyền của các đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các sử gia và các nhà nghiên cứu về thềm lục địa trình bày rất nhiều. Gần đây nhứt là trong cuốn Ðịa lý Biển Ðông của Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, một công trình nghiên cứu tỉ mỉ, đã sưu tập những tài liệu để chứng minh chủ quyền Việt Nam không những về các hoạt động để xác nhận chủ quyền của quốc gia mà còn phân tích tỉ mỉ về các dữ kiện địa chất, thảo mộc và khí tượng để minh xác là những hải đảo trong vùng Hoàng - Trường Sa đã được tổ tiên chúng ta đặt chân tới đặt bia miếu và trong quá khứ gần đây Việt Nam Cộng Hòa đã tiếp tục tham dự các hoạt đông khí tượng trên bình diện quốc tế.<br /><br />Khi chính phủ bảo hộ Ðông Dương của người Pháp vào năm 1933 đã ra nghị định sát nhập hành chánh các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào các tỉnh ven biển thì chỉ có duy nhứt Nhật bản phản kháng mà thôi và cũng chỉ phản kháng lấy lệ và người Pháp vẫn tiếp tục thi hành nghị định đã ban bố trong công báo Pháp. Ngay cả người Anh, những nhà hàng hải của họ đã khám phá thấy các đảo vùng Trường Sa, nhưng khi Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha ký hiệp ước bảo hộ vào năm 1862 thì họ đã không phản ứng gì.<br /><br />Sự chiếm đóng quân sự của Ðài Loan trên đảo Thái Bình, của Phi Luật Tân trên đảo Loại Ta, của Trung Hoa Dân Quốc trên đảo Phú Lâm cực bắc của quần đảo Hoàng Sa chỉ vì người Pháp, trong cuộc chiến tranh Ðông Dương đã phải đương đàu ngặt nghèo với các cuộc hành quân tảo thanh cũng như phòng thủ trong đất liền nên chỉ có thể dặt quân trú phòng trên đảo Hoàng Sa mà thôi bằng khoảng một trung đội Lê dương và đã bỏ ngỏ các đảo quan trọng khác. Ðặc biệt là đảo Thái Bình của quần đảo Trường Sa dã bị quân đội Nhật cưỡng chiếm trong đệ nhị thế chiến. Khi quân Nhật đầu hàng thì Trung Hoa Dân Quốc chỉ có nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật nhưng họ đã lợi dụng tình thế bối rối lúc bấy giờ của người Pháp để chiếm cứ luôn, cùng với đảo Phú Lâm của quần đảo Hoàng Sa. Riêng về đảo Phú Lâm thì khi đó chiến tranh quốc - cộng đến thời kỳ gần kết thúc tại lục địa, khiến Trung Hoa Dân Quốc đã buộc phải bỏ ngỏ một thời gian và Trung Cộng đã lấn chiếm vào giữa thập niên 50.<br /><br />Vào khoảng thời gian này thì Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa còn đang ở trong thời kỳ phát triển mạnh, vả lại Hải Quân còn phải tham dự các cuộc hành quân bình định của chính phủ trong sông ngòi cũng như ngoài ven biển nên các hoạt động ngoài biển khơi chỉ được hạn chế trong công cuộc tiếp tục yểm trợ sự hiện diện uqân sự trên đảo Hoàng Sa khi quân Pháp rút khỏi Việt Nam và dựng bia để khẳng định chủ quyền quốc gia trên đảo, đại diện cho quần đảo Trường Sa là đảo trường Sa (Spratly) mà thôi. Hơn nữa, đảo Phú Lâm lại nằm quá sát vĩ tuyến 17 nên còn nằm trong khu vực phi quân sự theo hiệp đinh Ba Lê năm 1954 mà chính phủ Việt Nam Cộng tuy không công nhận nhưng vào lúc này vẫn muốn không vi phạm.<br /><br />Cho đến khi kỹ thuật khai thác về dầu hỏa ngoài khơi được tiến triển thì vấn đề thềm lục địa được đặt ra, và chủ quyền của các quốc gia trên các hải đảo được chú trọng nhiều hơn. Trong kỳ hội thảo về bản đồ khu vực của Liên Hiệp Quốc cho Á Châu và Viễn Ðông lần thứ sáu (Sixth United Nations Regional Cartographic Conference For Asia And The Far East) họp tại Teheran, thủ đô Ba Tư vào tháng 10 năm 1970 và kéo dài một tháng, trong đó có các phái đoàn của các nước Ðông Nam Á như Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan), Nhật Bản, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái Lan vân vân tham dự, Phái đoàn Việt Nam do Ðại Tá Ðoàn Văn Kiệt (Lục Quân) Giám đốc Nha Ðịa Dư quốc gia, trực thuộc Bộ Quốc phòng, hướng dẫn trong đó có một vị kỹ sư địa dư và tôi tham dự. Trong mấy ngày đầu của cuộc hội thảo, phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan, do một vị tướng 3 sao lục quân cầm đầu) đột nhiên nêu vấn đề chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi phát triển trong hội trường.<br /><br />Vào thời gian này thì tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã có thành lập từ lâu Phòng Nghiên cứu hay Phòng 5, và phòng này đã thu thập được nhiều tài liệu lịch sử cũng như pháp lý về chủ quyền của quốc gia Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng vì đây là một cuộc hội thảo có tính cách hợp tác kỹ thuật do Liên Hiệp Quốc tổ chức, nên tôi đề nghị ngay với Ðại Tá Trưởng phái đoàn là phái đoàn Việt Nam sẽ thảo luận với các phái đoàn Ðông Nam Á khác để được sự ủng hộ của họ hầu phát biểu ý kiến lên hội trường là không đặt vấn đề chủ quyền quốc gia trong cuộc hội thảo nặng về kỹ thuật đồ bản này. Sau đó thì phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc đã không phản đối hay nêu thêm gì khác. Cũng cần ghi thêm ở đây là sau kỳ hội thảo tại Teheran Ba Tư, phái đoàn tham dự các cuộc hội thảo kế tiếp đều được Bộ Tư Lệnh Hải Quân đề cử sĩ quan xung vào phái đoàn. Việc nêu chủ quyền trên các hải đảo Hoàng và Trường Sa của Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) trong một cuộc hội thảo kỹ thuật của Liên Hiệp Quốc đã là một chỉ dấu của một khúc quanh về tranh chấp về chủ quyền các hải đảo, các sự đối đầu sẽ không chỉ còn nằm trong phạm vi tuyên cáo và phản đối lấy lệ về ngoại giao nữa như các quốc gia trong vùng đã từng làm trước đây. Lý do quan trọng nhứt là việc thăm dò các mỏ dầu hỏa từ năm 1969 đến năm 1971 của Việt Nam cộng hòa ngoài khơi Vũng Tàu và Côn Sơn đã làm cho các lân bang chú ý kể cả Trung Công và Cộng sản miền Bắc. Chúng ta còn nhớ là trong khoảng thời gian này, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa đã ra tận một trong các dàn khoan để châm lửa đốt hơi dầu khánh thành sự thành công về công cuộc tìm kiếm với một trữ lượng dầu đáng kể do một công ty khảo sát địa chất Huê Kỳ tại Houston đảm trách trong một vùng khoảng 4 ngàn hải lý vuông.<br /><br />Kể từ tháng chạp năm 1971 thì Việt Nam Cộng Hòa đã đặt ra vấn đề chia khu vực đặc nhượng đã hoàn tất, nhưng mãi đến tháng 7 năm 1973 việc nhượng quyền khai thác mới được công bố. Việc chậm trễ này là do nhu cầu chính trị của thời điểm này mà chính phủ Huê Kỳ đã khẩn khoản yêu cầu Việt Nam Cộng Hòa trì hoãn vì vào lúc đó phong trào phản chiến đang lên cao và họ đã chúi mũi dùi vào các hoạt động của các tổ hợp liên quốc dầu hỏa tại Việt Nam và Cam Bốt. Một phần quan trọng nữa là quốc hội Huê Kỳ đã lưu ý đến thềm lục địa vùng Ðông Nam Á vì vấn đề này có liên hệ tới chính quyền của Huê Kỳ tại vùng này. Do đó vào các năm 1970-71 việc thăm dò mỏ dầu ít được quảng bá để làm dịu bớt phong trào phản chiến tại nội địa Huê Kỳ cũng như không làm phương hại tới hòa đàm Ba Lê. Cộng sản Bắc Việt cũng biết được các dự định của Việt Nam Cộng Hòa về việc đặc nhượng nhưng mãi tới tháng 6 năm 1971 mới lên tiếng phản đối. Ðương nhiên là Trung Cộng cũng đã theo dõi các tiến triển về thăm dò trong lòng biển và chú tâm nhiều về các trữ lượng dầu hỏa đáng khích lệ trong vùng Biển Ðông.<br /><br />Song song với việc thăm dò dầu hỏa là công cuộc thực hiện đặt quân trú phòng trên các đảo còn bỏ trống thuộc quần đảo Trường Sa do chính Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa chủ trương và nắm phần chủ độngvề mọi công tác. Công cuộc thực hiện này là kết quả của một cuộc thao dượt hạm đội vào đầu mùa hè năm 1973 do Bộ Tư Lệnh Hạm Ðội lúc bấy giờ là HQ Ðại Tá Nguyễn Xuân Sơn đề xướng với sự chấp thuận của Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Tôi với chức vụ là Chỉ huy trưởng Hải đội 3 (Hải đội tuần dương) đã được Tư Lệnh Hạm Ðội trao phó trách nhiệm tổ chức lực lượng và đặt kế hoạch thao dượt cũng như chương trình thám sát các hải đảo. Sau khi hòa đàm Ba Lê được ký kết, thì Hạm đội bấy giờ mới có được một số chiến hạm tạm rảnh tay với công tác tuần dương, cho nên thành phần của hải đội đặc nhiệm đã gồm các chiến hạm khiển dụng hoặc tạm hoãn biệt phái cho Bộ Tư Lệnh Hành Quân Biển, trong công tác tuần phòng cận và viễn duyên. Vào những năm chiến tranh sôi động thì các chiến hạm lớn hay nhỏ không thuộc loại chuyên chở đều phải thay phiên nhau tham dự công tác tuần dương hay tuần duyên hoặc đảm trách một vài nhiệm vụ yểm trợ hải pháo tùy theo nhu cầu trong vùng công tác. Bởi vậy sự hoạt động của các chiến hạm theo từng phân đoàn hay hải đoàn ít khi được tực hiện và có thể nói là gần như không có, và nếu có thì thời gian hoạt động rất hạn hẹp. Cũng cần lạm bàn thêm tại đây là cuộc chiến tranh tiễu trừ cộng sản trong nội địa đã phải cần sự tham dự của các đơn vị Hải Quân rất nhiều vì hệ thống sông ngòi và kinh rạch từ Cửa Việt vào Miền Nam qua mũi Cà Mâu cho đến Kinh Vĩnh Tế chạy dọc theo biên giới Miên Việt từ Hà Tiên cho tới Châu Ðốc.<br /><br />Thành phần của Hải Ðội dặc nhiệm thao dượt gồm có: 1 Khu trục hạm, 3 Tuần dương hạm, 1 Trợ chiến hạm, 2 Cơ xưỡng hạm. Cơ xưởng hạm HQ 802 (Hạm trưởng HQ Trung Tá Vũ Quốc Công) là soái hạm của cuộc thao dượt. HQ 801 có chở theo sinh viên Sĩ quan của Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang và một vị Hạm trưởng được tăng phái trên chiến hạm này để huấn luyện về tiếp tế ngoài khơi, vì vậy cuộc thao dượt còn là một môi trường huấn lyện trên đại dương cho các sĩ quan Hải Quân tương lai.<br /><br />Hải đội đặc nhiệm thao dượt rời quân cảng Sàigòn trực chỉ đảo Trường Sa và tới đảo vào một buổi sáng. Thời tiết vào đầu mùa hè đã bắt đầu nóng nên cuộc đổ bộ lên đảo được thực hiện thật sớm vì đảo không có cây tương đối lớn khả dĩ có thể cho bóng mát để trú nắng. Công tác trên đảo gồm có dựng cờ quốc gia và xây cất một tấm bia vì tấm bi cũ đã không còn thấy, có thể là đã bị các ngư phủ của các quốc gia lân bang khi dừng chân trên đảo đã phá vỡ.<br /><br />Sau khi đổ bộ lên đảo Trường Sa, hải đội thao dượt trực chỉ đảo Thái Bình, Nam Yết (phía nam đảo Thái Bình) và đảo Sơn Ca (đông Thái Bình). Ði qua đảo Nam Yết và Sơn Ca Hải đội thao dượt chỉ quan sát đảo chứ không đổ bộ và sau đó tất cả các chiến hạm đã bỏ neo phía nam đảo Thái Bình. quân trú phòng của Ðài Loan trên đảo đã phải đặt trong nhiệm sở tác chiến, nhưng sau đó họ nhận thấy quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa nên có thể họ đã an tâm. Hải đội đã liên lạc bằng quang hiệu để xin thăm viếng xã giao trên đảo và được sự đồng ý. Phía đoàn do Tư Lệnh Hạm Ðội hướng dẫn đã lên đảo vào khoảng gần trưa và đã được Ðại Tá Thủy Quân Lục Chiến Chỉ huy trưởng quân trú phòng tiếp đón trong phòng khách của Bộ Chỉ Huy và không có cuộc đi thăm viếng trên hải đảo có thể vì lý do bảo mật của họ.<br /><br />Sau khi Thái Bình, Nam Yết và Sơn Ca, Hải đội trực chỉ phía bắc hướng về hai đảo Song Tử Ðông và Song Tử Tây và ghé qua quan sát đảo Loại Ta. Ðảo Loại Ta lúc đó đã do quân đội Phi Luật Tân trú đóng, và một chòi canh đơn sơ có thể được quan sát dễ dàng từ bên ngoài. Hai đảo Song Tử Ðông và Tây tuy nhỏ nhưng rất gần nhau và có một số cây lớn có thể cho bóng mát.<br /><br />Cuộc thao dượt kéo dài khoảng 1 tuần lễ, trong suốt các hải trình từ đảo này tới đảo khác, các chiến hạm tham dự đã thực tập mọi phương tiện truyền tin từ hiệu kỳ cho đến vô tuyến âm thoại, thực tập các chiến thế phòng không cho đến chống tiềm thủy đĩnh, hộ tống và tiếp tế ngoài khơi.<br /><br />Sau cuộc thao dượt, vị Tư Lệnh Hạm Ðội và tôi liên lạc chặt chẽ với Chánh Võ phòng Phủ Thủ Tướng để xin cho hai chúng tôi được trình bầy về quần đảo Trường Sa. Sau khoảng một tuần lễ thì lời thỉnh cầu của chúng tôi được chấp thuận. Hai chúng tôi và một vị Hạ Sĩ quan (Thượng Sĩ VC Nguyễn Mạnh Hưởng) thuộc phòng hành quân Hải đội 3 đã đến Phủ Thủ Tướng với đầy đủ sơ đồ và kính chiếu để thuyết trình trong một buổi hội của Hội đồng nội các do chính Thủ Tướng chính phủ Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm chủ tọa và đông đảo các vị bộ trưởng. Phần thuyết trình là phần mở đầu của buổi hội vào khoảng 9 giờ sáng. Tư Lệnh Hạm Ðội, sau phần trình bầy chi tiết địa lý của các hải đảo cũng như sự chiếm đóng đã lâu ngày của Trung Hoa Dân Quốc và Phi Luật Tân, đã mạnh mẽ đề nghị Việt Nam Cộng Hòa phải có sự hiện diện quân sự trên đảo thuộc quần đảo Trường Sa như: Nam Yết, Trường Sa (Spratly) Song Tử Ðông và Song Tử Tây v.v... Ðề nghị của Hải Quân đã được toàn thể nội các tán đồng ngay mà không có thắc mắc nào được đưa ra thêm để bàn cãi. Sau phần trình bầy phái đoàn Hải Quân rút ra khỏi phòng hội để hội đồng nội các thảo luận tiếp sang các mục khác của buổi hội.<br /><br />Sau đó, lệnh từ Bộ Quốc Phòng đã đến Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Cục Công Binh và Tiểu Khu Bình Tuy để thi hành việc đồn trú quân trên các đảo vùng Trường Sa. Ðảo được thực hiện trước nhất là đảo Nam Yết. Tôi được chỉ định là Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của cuộc hành quân Trần Hưng Ðạo 22 (chỉ số không chắc chắn). Vào cuối tháng 5, khi gió mùa đông nam đã nhẹ nhẹ thổi, Dương Vận Hạm HQ 504 (Hạm trưởng HQ Trung Tá Vũ Hữu San) khởi hành từ cầu Tự Do, với khoảng một trung đội công binh, xuồng cao su và vật liệu xây cất doanh trại cho một trung đội bộ binh. Sau gần 36 giờ hải hành, việc đổ bộ công binh và vật liệu xây cất cũn như nước ngọt lên đảo rất mỹ mãn và công tác xây cất được khởi sự ngay. Sau vài ngày thì có thêm Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ 4 (Hạm Trưởng HQ Thiếu Tá Nguyễn Quang Ðộ) tới tăng cường. Trong thời gian xây cất, Thuỷ Quân Lục Chiến của Trung Hoa Dân Quốc ở đảo Thái Bình có gởi một xuồng 3 người xuống gần tới các chiến hạm và khi nhận dạng được thì họ quay đầu về sau đó không có hành động gì khác.<br /><br />Công cuộc xây cất doanh trại được hoàn tất trong vòng hơn 2 tuần lễ và một lễ thượng kỳ đã được tổ chức long trọng trên đảo với nhân viên hải quân, công binh và địa phương quân trú phòng. Một bảng khắc chữ bằng kim loại không rỉ sét (inox) ghi tên cuộc hành quân Trần Hưng Ðạo ... và cấp bậc, danh tánh của tôi là Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân cùng ngày tháng đã được gắn trên nền của kỳ đài. tin từ một cựu chiến hữu Hải quân còn ở lại quê hương cho biết là hình ảnh của bản khắc nói trên đã được Việt cộng xử dụng ít nhất là một lần trong một cuộc triển lãm tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân VNCH cũ để chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng và Trường Sa.<br /><br />Theo nhiều phân tích gia thì trong thế kỷ 21, vùng Châu Á Thái Bình Dương sẽ trở thành một khu vực kinh tế rất quan trọng của thế giới, cho nên Trung Cộng không những chỉ muốn đạt tới và duy trì vai trò một siêu cường kinh tế mà còn muốn tái diễn một sức mạnh đế quốc của họ trong lịch sử đối với các nước lân bang như là thuộc quốc phải thần phục và triều cống. Trong quá khứ về trước người Trung Hoa không có khả năng để quan tâm tới biển cả nên chỉ phần lớn xâm lăng bằng đường bộ và lực lượng Hải quân của họ chỉ đủ để bảo vệ vùng ven biển và chống hải tặc hoành hành các vùng cận duyên và các cửa sông. Nhưng vai trò mới của Trung Cộng trong vùng Ðông Nam Á về kinh tế cũng như ảnh hưởng về chính trị, cộng thêm với khả năng tối tân của lực lượng hải quân nên Trung Cộng đã đặt nặng vấn đề bành trướng chủ quyền trên mặt biển như một trọng tâm trong tiến trình trở thành một siêu cường trong thế kỷ tới. Cho nên việc hoàn tất cưỡng chiếm toàn quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 bằng một lực lượng hùng hậu về hải lục không quân cũng như quân thủy bộ, và vào các năm sau 1975, các hành động lấn chiếm bằng cách đánh bật lực lượng hải quân Việt cộng để dành giựt cùng cắm dùi các hải đảo cũng như các bãi đá ngầm trong vùng Trường Sa, đã chứng tỏ là các đường lối của họ đã theo đúng các chỉ đạo chiến lược bá chủ vùng Ðông Nam Á.<br /><br />Báo Tuổi Trẻ phát hành ngày 18 tháng tư 98 tại Sàigòn có đăng tải cuộc phỏng vấn của Ðài phát thanh quốc tế Pháp (RFI), Bà Mônich Sơmiliê Giăngdrô (nguyên văn), giáo sư Luật Ðại Học Ðường Paris đã khẳng định là việc Trung Cộng chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa là hoàn toàn trái với luật pháp quốc tế, vì những tài liệu lịch sử cho thấy quần đảo thuộc về Việt Nam. Bà cũng đề cập đến các dẫn chứng lịch sử từ thế kỷ 17 và thời vua Minh Mạng. Về phía Trung Cộng, tuy họ nói có những tài liệu xưa hơn cả tài liệu của Việt Nam, nhưng lại chưa đưa ra được văn bản nào đáng tin cậy để chứng minh. Ðài RFI cũng nêu tờ Minh Báo của Hồng Kông (ngày 4-4) tiết lộ Trung Cộng có kế hoạch biến một đảo thuộc Hoàng Sa thành một trung tâm du lịch như Hawaii với khách sạn và nhà hàng và một giới hữu trách ở đảo Hải Nam xác nhận là trong vài năm tới sẽ bắt đầu tổ chức du lịch trên quần đảo Hoàng Sa. Ðài RFI nhận xét kế hoạch này cho thấy Bắc Kinh vẫn không từ bỏ tham vọng lấn chiếm lãnh thổ dần từng bước không những tại biên giới trên bộ mà còn ở vùng biển. Bộ Ngoại giao cộng sản VN đã kịch liệt lên án kế hoạch này và khẳng định là mọi hành động trái phép của ngoại quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều là sự vi phạm chủ quyền lãnh thổ của VN. Cũng nên ghi thêm l38 đây là Trung Cộng và Việt cộng đã có tới 10 vòng hội đàm nhưng vẫn chưa giải quyết xong vấn đề Hoàng Trường Sa và cả biên giới trên bộ. Báo Tuổi Trẻ cũng tố cáo là bằng việc xây cất cơ sở hành chánh và với kế hoạch xây khu du lịch để đón du khách, Bắc Kinh đã sáng tạo ra ảo tưởng là quần đảo này vĩnh viễn thuộc về Trung Cộng. Không những thế, ngày 21 tháng 5 vừa qua Trung Cộng lại thêm một lần nữa xác nhận chủ quyền trên các đảo Trường Sa. Phát ngôn nhân của bộ ngoại giao Trung Cộng nói: Trung Cộng có chủ quyền không thể chối cãi ở Trường Sa và các vùng biển lân cận và còn nói thêm là các tầu Trung Cộng có những hoạt động khảo cứu khoa học bình thường ở vùng nói trên hồi gần đây là vấn đề hoàn toàn nằm trong lãnh hải của họ. Trong khi đó thì Bộ Ngoại Giao của Việt cộng nói chiếc tầu nghiên cứu khoa học của Trung Cộng đã hoạt động sâu trong thềm lục địa Việt Nam từ tháng 4 năm nay.<br /><br />Mặc dầu Việt Nam và Trung Cộng đã có hơn 10 cuộc thương thảo về chủ quyền các hải đảo và lẫn cả biên giới trên bộ, nhưng đến nay vẫn chưa có một kết quả cụ thể nào và đượng nhiên chúng ta sẽ còn thấy nhiều phen gay go xẩy ra giữa Việt Nam và Trung Cộng trong tương lai nhất là Việt Nam và Thái Lan đã chia phần biển để tìm kiếm dầu trong vịnh Thái Lan sau khi đã đạt tới một sự thỏa thuận về lằn ranh khai thác trên mặt biển.<br /></div><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Hà Văn Ngạc</span><br />Jun. 15/98 <center>ooOoo<br /><ul><span style="COLOR: rgb(0,0,102);font-size:130%;" >Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại nói về Hải chiến Hoàng Sa</span></ul><center><object width="555" height="444"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/JTE-NUHH4lU&hl=en_US&fs=1&"><param name="allowFullScreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><embed src="http://www.youtube.com/v/JTE-NUHH4lU&hl=en_US&fs=1&" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" height="344" width="425"></embed></object></center><br /><br /><div style="TEXT-ALIGN: justify">Nhân lễ Tưởng niệm và vinh danh các chiến sĩ đã hy sinh trong trận Hải Chiến Hoàng Sa sẽ được cử hành nhiều nơi như Dallas, Texas; San Diego, CA; Nam Cali, Bắc Cali, Paris, Pháp; Melbourne, Úc … để vinh danh những chiến sĩ Hải Quân và các quân cán chính khác (Địa phương Quân …) đã anh dũng hy sinh bảo vệ từng tấc đất quê hương, Tuyết Mai xin gởi đến quý vị bài phỏng vấn Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (PĐĐ HVK Thoại), người trực tiếp ra lệnh khai hỏa, tấn công Tàu chiến Hải Quân Trung Cộng ở Quầnđảo Hoàng Sa. Đây là một trận chiến vô cùng hùng anh, oanh liệt thể hiện tinh thần anh dũng của chiến sĩ áo trắng nói riêng, của dân tộc VN nói chung, sẳn sàng hy sinh để chống ngoại xâm trong lịch sử VN cận đại.<br /><br />Lúc đó, năm 1974, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại là Tư Lệnh Hải Quân vùng I Duyên Hải, chịu trách nhiệm bảo vệ vùng duyên hải của Quân khu I, bao gồm quần đảo Hoàng Sa. Cựu Phó Đề Đốc HVK Thoại đã nhận báo cáo tình hình có thuyền bè Trung Cộng xuất hiện ở vùng đảo này từ đầu và đã trực tiếp trình lên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Chính Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại là người trực tiếp nhận thủ bút từ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh đối phó với tình trạng xâm nhập bất hợp pháp của Trung Cộng và cũng chính Cựu Phó Đế Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh cho Cựu Đại Tá Hà Văn Ngạc, Sĩ quan Chỉ huy chiến thuật khai hỏa trong trận Hải chiến Hoàng Sa.<br /><br />Kính mời quý vị theo dõi câu chuyện giữa Tuyết Mai và Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại vể diễn tiến trận Hải chiến Hoàng Sa, bắt đầu khoảng 10 giờ sáng ngày 19 Tháng Giêng, 1974 và kéo dài hơn ba mươi phút.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI:</span> Thưa Đô Đốc (khi nói chuyện TM gọi Phó Đề Đốc là Đô Đốc cho ngắn gọn) giới thiệu sơ qua về Quần đảo Hoàng Sa. Trước 1974 Trung Cộng có hành động nào gây chiến ở vùng đảo này không?<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HVK THOẠI:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Trên đảo không có dân cư sinh sống, chỉ có đài khí tượng quốc tế với bốn nhân viên làm việc. Hai mươi bốn Địa Phương Quân thuộc tỉnh Quảng Nam trú đóng trên bốn đảo, họ di chuyển bằng xuồng cao su. Theo tôi biết thì trước năm 1974 không có sự đụng chạm nào đáng kể với Trung Cộng. Đến đầu năm 1974 Trung Cộng thấy Mỹ rút quân ra khỏi Miền Nam thì họ có kế hoạch xâm chiếm rõ ràng, như cấm cờ hay ồ ạt đổ bộ một số người lên đảo. Khi chúng ta bắt đầu dùng biện pháp đối phó thì họ đưa hạm đội rất mạnh mẽ ra đây.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI: </span>Thưa Đô Đốc khi Đô Đốc được tin có tàu lạ trong vùng lãnh hải của chúng ta, Đô Đốc có trình lên Tổng Thống Thiệu, lúc đó Tổng Thống Thiệu đang ở đâu ?<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HVK THOẠI:<span style="FONT-STYLE: italic"> </span></span><span style="FONT-STYLE: italic">Đêm 16 Tháng 1, trong công tác Hải quân thường lệ, tôi được báo cáo có nhiều ngư thuyền lạ và có dấu hiệu của một vài hoạt động trên đảo. Lúc đó tôi đang dùng cơm với Tổng Thống Thiệu và một số tướng lãnh ở Mỹ Khê, Đà Nẳng. Tôi có trình cho Tư Lệnh Quân Khu I , tức là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, cũng có mặt tại bữa cơm đó. Trung Tướng Trưởng bảo tôi tới trình ngay với Tổng Thống Thiệu. Tổng Thống Thiệu ra lệnh tôi sáng ngày mai tức 17 Tháng 1đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân vùng I Duyên Hải để thuyết trình rồi Tổng Thống Thiệu sẽ cho chỉ thị.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI:</span> Thưa Đô Đốc trong cuốn “Can Trường Trong Chiến Bại”. Đô Đốc có kể Tổng Thống Thiệu viết thủ bút trong vòng 15 phút, ra lệnh Hải QuânVN đối phó với tình hình căn thẳng với Trung Cộng ở quần đảo Hoàng Sa. Theo Đô Đốc Tổng Thống Thiệu có cân nhắc kỹ trước khi ra lệnh đối đầu với Trung Cộng, Hải quân TC rất hùng mạnh.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HKV THOẠI:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Tổng Thống đã nghe tôi tường trình tình hình đêm trước, tôi tin chắc là Tổng Thống đã suy nghĩ kỹ. Sáng hôm sau, trong vòng 45 phút, trước khi quyết định, Tổng Thống có hỏi rất nhiều câu hỏi, và có bàn với các vị tướng lãnh hiện diện trước khi lấy giấy mực ra viết thủ bút cho tôi thi hành. Hơn nữa tôi cũng xin nhắc lại là quyết định của Tổng Thống không phải cho nổ súng để tấn công, tiêu diệt hạm đội của Trung Cộng. Chỉ thị của Tổng Thống là mời các ngư thuyền cũng như chiến hạm lạ ra khỏi lãnh hải của chúng ta. Lúc đó tôi cũng chưa chắc những chiến hạm hiện diện đó là của Trung Cộng. Tổng Thống chỉ thị là làm thế nào để chứng minh cái chủ quyền quốc gia của chúng ta trên các hải đảo bằng mọi biện pháp ôn hòa. Nếu họ không tuân lệnh thì bắt buộc mình phải dùng võ lực để mời họ ra. Trước khi cho nổ súng chúng tôi cũng đã cho chiến hạm của chúng tôi đuổi họ ra, nhưng sự khiêu khích của họ càng ngày càng nhiều hơn, cho nên Cựu Đại Tá Hà Văn Ngạc có bàn với tôi là phải đi tới quyết định “ khai hỏa”.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI:</span> Thưa Đô Đốc như vậy thì trận chiến Hoàng Sa lúc đầu dự tính chỉ đuổi những ngư thuyền và chiến hạm ra khỏi lãnh hải, chứ không dự tính trước sẽ có một cuộc hành quân, một trận hải chiến dữ dội giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng?.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HVK THOẠI:</span> <span style="FONT-STYLE: italic">Không, không. Tôi nhấn mạnh là không có một cuộc hành quân gì cả. Hôm 18/1 tôi có ra lệnh bằng giấy trắng mực đen cho Đại Tá Hà Văn Ngạc có thể thi hành nhiệm vụ có giấy tờ, nhưng đó không phải là cuộc hành quân mà chỉ là việc làm rất là thường xuyên.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI:</span> Thưa Đô Đốc nói rõ những sự kiện trước khi quyết định khai hỏa, lúc đó Đô Đốc ở đâu?<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HVK THOẠI: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Lúc đó tôi đang ở Đà Nẳng.Trước khi khai hỏa , Cựu Đại Tá Hà Văn Ngạc cũng đã trình cho tôi rất chi tiết mọi hành động, mọi sự di chuyển của chiến hạm Trung Cộng cũng như của các ngư thuyền cùng mọi chuyện xảy ra trên đảo. Tôi đã ra lệnh mỗi chiến hạm cho một toán đổ bộ lên đảo để thám sát, cho nên chúng tôi nắm rất vững tình hình. Trước khi khai hỏa thì Đại Tá Ngạc có nói với tôi rằng, sự khiêu khích đã đến cái độ thế nào rồi cũng phải nổ súng. Nếu để Trung Cộng nổ súng trước thì bên HQVN sẽ bị thiệt hại nặng nề vì chiến hạm của họ rất tối tân, trong lúc chiến hạm của HQVN to và chậm, lúc đó sẽ không xoay xở kịp. Đại Tá Ngạc có bàn với tôi và tôi đồng ý là khi tình hình không thể nào làm khác được thì chúng ta phải nổ súng trước, và chúng ta nổ súng đồng loạt thì địch phải phân tán hải pháo của họ ra.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI:</span> Thưa Đô Đốc lực lượng hai bên lúc đó như thế nào?<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HVK THOẠI:<span style="FONT-STYLE: italic"> </span></span><span style="FONT-STYLE: italic">Không kể những ngư thuyền có trang bị vũ khí, lúc đầu họ có hai chiến hạm lớn, sau có tăng viện thêm hai chiếc là bốn, cho thấy rõ ràng là họ còn một lực lượng trừ bị, sẳn sàng tăng cường trong vài giờ . Về phía Việt Nam thì có hai chiến hạm và mất cả ngày mới có thêm hai chiến hạm nữa là bốn chiến hạm. Khi giao chiến thì mỗi bên có bốn chiến hạm.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI:</span> Thưa Đô Đốc diễn tiến trận chiến như thế nào?<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HVK THOẠI: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Buổi chiều 18 Tháng 1, khi bên HQVN đã ra dấu hiệu bật đèn cũng như ra nhiều dấu hiệu để mời họ ra, Tàu Trung Cộng đã không ra khỏi lãnh hải mà có hành động gây hấn như dọa nạt, chỉa súng vô chiến hạm HQVN và chạy rất gần. Lúc đầu HQ VN làm theo chỉ thị của Tổng Thống, nghĩa là ôn hòa mời họ đi ra, nhưng họ nhất dịnh không chịu ra. Cho đến sáng ngày 19 Tháng 1, 1974 tình hình rất căn thẳng, không thể kéo dài hơn được nữa thì trên soái hạm HQVN Đại Tá Ngạc ra lệnh khai hỏa và chiến hạm Trung Cộng phản pháo, bắn trả lại. Sau đó chiến hạm Trung Cộng thấy Nhật Tảo nhỏ nhất và chạy chậm nhất vì hư một máy nên Trung Cộng đã dồn hải pháo vào chiếc Nhật Tảo, chiếc này chìm trong thời gian rất ngắn. Hạm trường là Thiếu Tá Ngụy Văn Thà đã hy sinh theo chiến hạm.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI:</span> Thưa Đô Đốc là người ra lệnh cho Đại Tá Ngạc khai hỏa?<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HVK THOẠI:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Đại tá Ngạc có đề nghị rằng “Tới lúc nào đó thì phải nổ súng, vì họ không chịu ra, mình phải dùng võ lực theo chỉ thị của Tổng Thống Thiệu, tức là vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội”. Tôi có nói với Đại Tá Ngạc: "Khi nào ông sẳn sàng thì khai hỏa”. Lúc các chiến hạm ở trong vị thế không thuận lợi thì Đại Tá Ngạc cho khai hỏa. Khi nổ súng thì tôi có nghe trong máy truyền tin, lúc đó khoảng 10 giờ sáng ngày 19 Tháng 1, 1974.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI:</span> Thưa theo Đô Đốc, chúng ta không có chuẩn bị, không có kế hoạch trước, lúc đó HQVN có kêu cứu với các Cố Vấn Mỹ?<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HKV THOẠI:</span> <span style="FONT-STYLE: italic">Trong cương vị của cấp chỉ huy tôi đã biết và tôi phải biết là HK sẽ không tham dự cuộc chiến dù nguy kịch đến đâu. Đó là điều tôi đã biết trước, tuy nhiên tôi cũng có điện thoại về Bộ Tư Lệnh Hải Quân, để hỏi vị trí của Đệ Thất Hạm Đội của HK thì được biết là lúc nào họ cũng hoạt động vùng biển Đông. Bộ Tư Lệnh cho biết Đệ Thất Hạm Đội có mặt tại đó. Tôi không hy vọng họ tham gia, nhưng tôi cần họ cứu vớt người trên biển. Khi sự việc xảy ra rồi, không có chiến hạm nào của Mỹ đến cứu vớt.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI:</span> Thưa Đô Đốc sự thiệt hại của hai bên, cũng như HQVN hy sinh như thế nào?<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HVK THOẠI:</span> <span style="FONT-STYLE: italic">Sau nửa tiếng đồng hồ giao tranh thì hai bên đều rút lui vì hai bên đều thiệt hại nặng cả. Bên HQVN chiếc Nhật Tảo bị chìm, tử thương 58 người (đa số thuộc chiến hạm Nhật Tảo và số còn lại thì gồm có hai người nhái trên đảo). Mỗi chiến hạm có một số bị tử thương. Phía Trung Cộng cũng bị thiệt hại nặng nề, một chiếc bị chìm, về nhân mạng có một số sĩ quan cao cấp bị tử thương , thành ra không thể nói bên nào chiến thắng hay chiến bại . Tuy nhiên tôi được tin từ Cố Vấn HK cho biết một lực lượng hùng hậu gồm 17 chiến hạm khác từ Hải Nam đang hướng về hướng Hoàng Sa, trong đó có 13 chiến hạm với bốn chiếc tiềm thủy đỉnh loại tàu ngầm .</span><br /><br /><span style="FONT-STYLE: italic">Với một lực lượng như vậy , tôi biết mình không thể nào đối đầu được. Bên HQVN có tăng cường thêm hai chiếc nữa tức là sáu chiếc, nhưng khi hai chiếc sau đang trên đường tới thì Cố Vấn Hoa Kỳ cho biết nếu mà thêm hai chiến hạm VN tham chiến thì sẽ có phi cơ phản lực của Trung Cộng từ đảo Hải Nam đến dội bom. Tôi nghĩ, nếu bên Trung Cộng dùng phi cơ phản lực để dội bom, mà phi cơ VN không ra tham chiến được thì các chiến hạm VN sẽ bị lâm nguy, nên tôi cho các hạm đội trở về.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI:</span> Mỗi quân binh chủng có những trận chiến lẫy lừng làm cho người lính rất hãnh diện về tinh thần chiến đấu anh dũng của quân binh chủng mình, có lẽ trận Hải chiến Hoàng Sa là niềm hãnh diện của những “Chiến sĩ áo trắng”. Quân chủng Hải Quân đã chọn ngày 19 /1 làm ngày tưởng niệm và vinh danh các chiến sĩ HQ đã hy sinh. Đây cũng là ngày để ung đúc, nuôi dưỡng tinh thần chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ Quân chủng HQ.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HVK THOẠI:</span><span style="FONT-STYLE: italic"> Vâng, tôi thấy đó là chuyện phải làm để vinh danh những chiến sĩ đã hy sinh để bảo vệ Tổ Quốc. Tổ chức những lễ vinh danh hay lập tượng đài để tưởng nhớ là điều phải làm . Từ năm 1975 luôn có tổ chức ngày giỗ ở Saigon. Sau 1975 rải rác nhiều nơi trên toàn thế giới, nơi nào có Hải Quân đều có tổ chức ngày giỗ để tưởng nhớ đến những tử sĩ. Chúng tôi cũng tìm gia đình của những chiến hữu đã hy sinh trong trận Hoàng Sa để giúp đỡ, và ở San Diego cũng cố gắng xây đài tử sĩ Hoàng Sa.</span><br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">TUYẾT MAI:</span> Để kết thúc cuộc nói chuyện này, kính xin Đô Đốc nói vài lời cuối cùng.<br /><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">PĐĐ HVK THOẠI: </span><span style="FONT-STYLE: italic">Ngày nào tôi còn sống, tôi vẫn nhớ tới những chiến sĩ đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa. Có một điều chắc chắn là đối với thế hệ mai sau, sự hy sinh đó không phải là sự hy sinh oan uổng. Chúng ta sẽ tìm mọi cách để đòi lại những hải đảo đó. Đây là một nỗi đau buồn cho một số gia đình HQ nhưng cũng là niềm hãnh diện chung cho dân Việt Nam. Đây là một hành động rất anh hùng của các chiến sĩ Hải Quân, tôi mong nhân dân Việt Nam, những thế hệ mai sau sẽ nhớ mãi.</span><br /></div><br /><span style="FONT-WEIGHT: bold">Tuyết Mai</span> <center><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JJAPJWBJI/AAAAAAAAHkQ/ohnMwrPwvOQ/s1600-h/haiquan.jpg"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 267px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5427480769349420178" border="0" alt="" src="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JJAPJWBJI/AAAAAAAAHkQ/ohnMwrPwvOQ/s400/haiquan.jpg" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JGpB45FoI/AAAAAAAAHj4/tdOon9XRD0c/s1600-h/bnvmUuJwrz_56.jpg"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 297px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5427478171630507650" border="0" alt="" src="http://2.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JGpB45FoI/AAAAAAAAHj4/tdOon9XRD0c/s400/bnvmUuJwrz_56.jpg" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JGp-UbRCI/AAAAAAAAHkI/VRKKe6aIETE/s1600-h/Nhat+Tao+HQ10.jpg"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 298px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5427478187852121122" border="0" alt="" src="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JGp-UbRCI/AAAAAAAAHkI/VRKKe6aIETE/s400/Nhat+Tao+HQ10.jpg" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JGovU-4hI/AAAAAAAAHjw/H54Xh8JnLUA/s1600-h/bnvqcAMx5A_Ky_Thoai_va_bo_tham_muu_trinh_dien_Ong_thieu.jpg"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 267px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5427478166648054290" border="0" alt="" src="http://1.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JGovU-4hI/AAAAAAAAHjw/H54Xh8JnLUA/s400/bnvqcAMx5A_Ky_Thoai_va_bo_tham_muu_trinh_dien_Ong_thieu.jpg" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JGoMSyfsI/AAAAAAAAHjo/EQ152v1j5ng/s1600-h/bnvsKHNDA8_taysachien1.jpg"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 267px; CURSOR: pointer" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5427478157243612866" border="0" alt="" src="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JGoMSyfsI/AAAAAAAAHjo/EQ152v1j5ng/s400/bnvsKHNDA8_taysachien1.jpg" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/S1JGp-UbRCI/AAAAAAAAHkI/VRKKe6aIETE/s1600-h/Nhat+Tao+HQ10.jpg"><br /></a><br /><object width="460" height="340"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/Os_39fe09RQ&hl=en_US&fs=1&"><param name="allowFullScreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><embed src="http://www.youtube.com/v/Os_39fe09RQ&hl=en_US&fs=1&" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" height="340" width="560"></embed></object><br /><br /><object width="460" height="340"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/LDyKotB3tgw&hl=en_US&fs=1&"><param name="allowFullScreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><embed src="http://www.youtube.com/v/LDyKotB3tgw&hl=en_US&fs=1&" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" height="344" width="425"></embed></object><br /><br /><object width="460" height="340"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/PifK5WsyDKM&hl=en_US&fs=1&"><param name="allowFullScreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><embed src="http://www.youtube.com/v/PifK5WsyDKM&hl=en_US&fs=1&" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" height="340" width="560"></embed></object><br /><br /><object width="460" height="340"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/ir1u1ClJtk0&hl=en_US&fs=1&"><param name="allowFullScreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><embed src="http://www.youtube.com/v/ir1u1ClJtk0&hl=en_US&fs=1&" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" height="344" width="425"></embed></object><br /><br /><object width="460" height="340"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/SjIK-Kef4A0&hl=en_US&fs=1&"><param name="allowFullScreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><embed src="http://www.youtube.com/v/SjIK-Kef4A0&hl=en_US&fs=1&" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" height="344" width="425"></embed></object><br /><br /><br /></center><br /></center>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-69231776535546554422010-01-14T17:09:00.001+11:002010-01-14T17:13:11.423+11:00CÓ NHỮNG ANH HÙNG BÂY GIỜ MỚI BIẾT - Nguyễn Hữu Thiên phỏng dịch<strong><em><span style="font-size:85%;">Đại Tá W.S. Reeder</span></em></strong><br /><br /><strong>Nguyễn Hữu Thiện</strong> (phỏng dịch và đặt tựa)<br /><br /><div align="justify"><em><span style="color:#000066;"><strong>Lời nói đầu:</strong> Sau cuộc chiến Việt Nam, đã có nhiều huyền thoại đầy anh hùng tính viết về các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và trong rất nhiều trường hợp, chỉ tới khi ấy, chúng ta mới giật mình nhận ra những người "anh hùng" được nhắc tới lại chính là những cấp chỉ huy, những đồng đội, những thuộc cấp rất bình thường của mình. Một trong những con người rất bình thường ấy vừa được vinh danh là cựu Trung-úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Văn Xanh, Phi Đoàn 530 Thái Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Pleiku).<br /><br />Thời gian ấy – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, với tư cách Sĩ quan Thông Tin Báo Chí đơn vị, có nhiệm vụ báo cáo hàng tuần về tổng số phi vụ và kết quả hoạt động của đơn vị cho Phòng Thông Tin Báo Chí – BTL/KQ , có lẽ chúng tôi đã chỉ ghi ngắn gọn trong phần tổn thất của quân bạn: "Phi Đoàn 530: một A-1 Skyraider bị phòng không địch bắn hạ ngày 9/5/1972 tại Kontum; phi công nhảy dù và được ghi nhận mất tích". Chấm hết!<br /><br />Nhưng với một phi công Đồng Minh xa lạ, tới đây câu chuyện của ông mới bắt đầu. Xin mời độc giả theo dõi câu chuyện cảm động ấy qua hồi ký của Đại-tá Lục Quân (hồi hưu) William S. Reeder, nguyên phi công trực thăng tấn công AH-1G Cobra, phục vụ tại Căn cứ Halloway, gần phi trường Cù Hanh, Pleiku, mới được phổ biến trên Internet. Cũng cần viết thêm, sau khi giải ngũ, ông Reeder đã trở lại trường đại học, và đạt tới học vị Tiến sĩ. NHT<br /></span></div></em><center>* * *</center><div align="justify"><br />Tôi còn nhớ đợt phục vụ luân phiên (tour of duty) thứ nhì của tôi khởi đầu vào ngày 7 tháng 12 năm 1971. Lúc ấy, chương trình rút quân Mỹ theo kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" của Tổng thống Nixon đang được tiến hành một cách suông sẻ. Gánh nặng trong cuộc chiến đã được chuyển giao gần hết cho Quân Lực VNCH, và quân Mỹ đã được đưa về nước với một nhịp độ chóng mặt. Giờ này nhìn lại, phải công nhận chương trình Việt Nam hóa ngày ấy đã đạt kết quả tốt đẹp. Hoạt động của địch quân ở miền Nam đã giảm hẳn, và hình thức chiến tranh du kích của quân phiến cộng đã không còn hiện hữu. Thế nhưng, sự yên tĩnh ấy đã không kéo dài.<br /><br />Mùa xuân 1972, quân Cộng Sản Bắc Việt bất thần mở những cuộc tấn công vũ bão chưa từng thấy trong cuộc chiến – đợt tấn công mà người Mỹ quen gọi là "Cuộc tổng công kích mùa Phục Sinh 1972" (1972 Easter Offensive). Đây không phải là một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng trong Nam như hồi Tết Mậu Thân 1968, mà là một chiến dịch quy mô với hàng loạt cuộc tấn công quy mô của quân CSBV băng qua vùng phi quân sự, và từ những căn cứ đóng quân trên lãnh thổ Lào và Căm-bốt, với mưu đồ cắt đôi lãnh thổ VNCH tại vùng Cao Nguyên, và tiến đánh Sài Gòn, thủ đô miền Nam. Kết quả, quân CSBV đã thất bại trước sức chiến đấu mãnh liệt của lục quân và không quân miền Nam, với sự trợ lực tận tình của những đơn vị Hoa Kỳ còn đồn trú tại đây. [1972 Easter Offensive được phía Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; và từ đoạn này, người dịch sẽ sử dụng "Mùa Hè Đỏ Lửa" thay cho "Easter Offensive"]<br /><br />Cuộc tổng tấn công bắt đầu vào tháng Tư năm 1972 với các cuộc tấn công của quân chính quy Bắc Việt từ Căm-bốt tiến về hướng Sài gòn, và băng ngang vùng phi quân sự tiến chiếm cố đô Huế. Sau cùng là mặt trận mang tính cách quyết định của chiến dịch: quân CSBV từ miền Bắc Căm-bốt và Nam Lào vượt biên giới tiến đánh vùng Tây Nguyên, với mục đích giành quyền kiểm soát dải đất Trung phần, và tiêu diệt lực lượng VNCH tại đây - giống như Việt Minh đã thực hiện, và đã thành công trong chiến tranh với Pháp vào năm 1954. Lần này, quân cộng sản đã thành công trong bước đầu, tuy nhiên sau đó họ đã không chiếm được một mục tiêu quan trọng nào. Ở phía bắc, họ chỉ tiến chiếm tới Quảng Trị, và sau đó đã bị lực lượng Nhảy Dù của VNCH đánh bại. Tại Tây Nguyên, họ chỉ chiếm được một số tiền đồn chung quanh Kontum, nhưng sau đó cũng bị đẩy lui.<br /><br />Câu chuyện tôi kể lại sau đây chính là bối cảnh của một bi kịch đời người diễn ra vào lúc ấy, với vai chính là tôi, và một phi công VNCH tên là Xanh Văn Nguyễn – hay gọi theo cách gọi của người Việt, họ luôn đứng trước tên gọi, thì là Nguyễn Văn Xanh. Vào thời gian Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khởi sự, tôi đang bay trực thăng tấn công AH-1G Cobra tại Căn cứ Halloway của Lục Quân Hoa Kỳ, ở gần tỉnh lỵ Pleiku. Trung-úy Nguyễn Văn Xanh thì bay khu trục cơ A-1 Skyraider ở Căn cứ Không Quân Pleiku. Chúng tôi không hề quen biết nhau, cũng chưa từng gặp gỡ bao giờ.<br /><br />Hôm đó là ngày29 tháng 5, 1972, vào lúc hừng đông, tôi chỉ huy một phi vụ gồm 2 chiếc trực thăng Cobra yểm trợ một căn cứ bộ binh đang bị địch công hãm ở Polei Klang, ở cực tây tỉnh Kontum, gần biên giới Căm-bốt. Một lực lượng quân CSBV với sự yểm trợ của chiến xa đang tấn công căn cứ và tình hình thật bi đát. Sau nhiều vòng tấn công và sử dụng toàn bộ rocket, đạn M-79 và đạn đại liên, chúng tôi bay về phi trường Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Nhân viên phi hành bay chung với tôi, tức phi công phụ kiêm xạ thủ ngồi ghế trước của chiếc Cobra, là Thiếu-úy Tim Conry, quê ở Phoenix, tiểu bang Arizona. Tim là sĩ quan trẻ xuất sắc nhất mà tôi được biết, vì thế ngay sau khi anh tới đơn vị, tôi đã chọn anh vào phi đội do tôi chỉ huy, và luôn luôn để anh bay chung với tôi. Anh không chỉ là một nhân viên phi hành xuất chúng mà còn là một con người toàn hảo. Nhưng vào chiều ngày hôm ấy, anh đã trở thành người hùng thiên cổ!<br /><br />Trở lại với phi vụ của chúng tôi, trên đường quay trở lại Polei Klang, chúng tôi được lệnh thay đổi mục tiêu tấn công: đó là tới yểm trợ cho một tiền đồn ở vùng Tam Biên – tức giao điểm của ba biên giới Việt Nam, Căm-bốt và Lào. Địa danh này có tên là Ben Het. Lực lượng trấn giữ là một tiểu đoàn Biệt Động Quân, với quân số khoảng 300 người, và hai cố vấn Mỹ. Lực lượng bé nhỏ ấy đang phải chống trả sức tấn công của hàng ngàn bộ đội thuộc hai sư đoàn CSBV có chiến xa tăng cường. Khi chúng tôi tới nơi, các chiến xa đã vượt qua hàng rào phòng thủ, và bộ đội Bắc Việt đã chiếm gần hết căn cứ.<br /><br />Trước đó, trên đường tới Ben Het, khi bay ngang qua Polei Klang, tôi nhìn xuống quan sát. Chiến sự đang sôi động, và tôi có thể thấy những chiếc khu trục A-1 Skyraider đang nhào xuống thả bom. Bỗng một chiếc A-1 bị trúng đạn phòng không, bốc cháy, đâm xuống đất nổ tung. Nhưng viên phi công đã kịp thời phóng ghế thoát hiểm vì tôi thấy cái dù của anh đang lơ lửng. Tôi liền gọi máy về xin được ở lại Polei Klang để yểm trợ cho cuộc cấp cứu. Lời thỉnh cầu của tôi bị từ chối. Tôi xin thêm một lần nữa, cũng bị từ chối. Và tới lần thứ ba thì bị từ chối một cách dứt khoát, cộc lốc. Lúc đó, chưa được biết tình hình ở Ben Het nguy kịch tới mức nào, cho nên tôi đã vô cùng phẫn nộ vì đã không được phép cứu giúp một phi công lâm nạn đang cần tới sự yểm trợ của mình.<br /><br />Tôi bay vào Ben Het mà tưởng như đang bay vào một tổ ong bị động. Lúc đó, 5 chiến xa địch đã vượt qua hàng rào kẽm gai, và bộ đội Bắc Việt thì tràn ngập khắp nơi. Các quân nhân đồn trú còn sống sót đã rút vào hầm chỉ huy ở trung tâm để cố thủ. Chúng tôi tác xạ một hồi rồi yểm trợ cho một chiếc trực thăng đặc biệt được trang bị một loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất. Sau khi sử dụng hết đạn dược, chúng tôi lại bay về Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Rồi quay trở lại Ben Het để thi hành phi vụ chiến đấu thứ ba trong ngày.<br /><br />Sau khi cất cánh khỏi phi trường Kontum, chúng tôi được lệnh hộ tống một trực thăng có nhiệm vụ tiếp tế đạn dược cho Ben Het. Lúc đó, đạn của lực lượng cố thủ đã gần cạn, riêng hỏa tiễn chống chiến xa thì đã hết sạch.<br /><br />Sau khi gặp nhau, chúng tôi hộ tống chiếc Huey (tức trực thăng UH-1) tới Ben Het, tất cả đều bay sát ngọn cây. Vừa bay tới Ben Het thì súng nổ như pháo Tết, súng của ta lẫn súng của định. Ở ghế trước trên chiếc Cobra của tôi, Thiếu-úy Tim Conry rải từng tràng mini-gun và những trái M-79 xuống thật chính xác. Tôi thì bắn từng cặp rocket. Chúng tôi càng tiến sâu thì hỏa lực phòng không của địch càng dày đặc. Nhưng rồi chiếc Huey cũng vào được tới nơi và hoàn tất nhiệm vụ cực kỳ khó khăn ấy, phần lớn là nhờ hỏa lực yểm trợ thật chính xác của Tim: sau khi lơ lửng tại chỗ ở cao độ gần sát mặt đất, và đạp các thùng đạn xuống, chiếc Huey bay ra dưới sự yểm trợ hỏa lực của chúng tôi. Cùng lúc, chiếc Cobra của tôi bị trúng vô số đạn đủ loại của địch, bốc cháy và đâm xuống theo đường xoáy trôn ốc. Chỉ trong giây lát, chiếc trực thăng chạm đất, và phát nổ ngay sau khi tôi và Tim - dù bị thương nặng – tìm cách thoát ra khỏi phi cơ.<br /><br />Tim chết vào chiều tối hôm đó. Riêng tôi thì bị gẫy xương lưng, phỏng ở mặt và phía sau cần cổ, một miểng đạn nằm sâu ở mắt cá, và vô số vết thương nhỏ ở mặt và đầu. Nhưng mặc dù phi cơ rớt ngay trong khu vực có hàng trăm địch quân đang tấn công căn cứ, tôi cũng lẩn tránh được ba ngày trước khi bị bắt.<br /><br />Tôi bị tra khảo trong mấy ngày liền; và bị đối xử khá tàn bạo. Khi ấy tôi ở trong một tình trạng cực kỳ thê thảm về thể xác. Lưng tôi bị gẫy. Máu từ vết thương ở mắt cá chảy ra đầy chiếc giày bốt, giờ này đã khô lại thành một khối cứng ngắt. Đã ba ngày tôi không cạo râu. Tôi không còn khả năng điều khiển ruột già và bàng quang, cho nên tôi đã đại tiện, tiểu tiện ra đầy quần. Tôi bị vô số vắt bám vào người để hút máu, và chúng đã bị tôi bứt ra hết, trừ một con đang chui vào lỗ mũi phía bên trái mà tôi không hề hay biết. Khi bắt được tôi và thấy cảnh này, đám bộ đội đã được một trận cười khoái trá. Tôi bị tra khảo, đánh đập, hăm dọa. Hai tay tôi bị trói ngược ra phía sau bằng dây nhợ, và càng ngày càng bị xiết chặt theo thời gian bị tra khảo, cho tới khi hai vai tôi bị trật khớp, và hai cùi chỏ bị trói cứng với nhau, cấn vào chỗ xương lưng bị gẫy khiến tôi đau đớn khôn tả. Cuối cùng thì cuộc tra khảo cũng chấm dứt, và tôi được lệnh đi bộ trong ba ngày liên tiếp, để tới một trại giam trong rừng già – mà theo sự ước đoán của tôi, nằm ở phía bắc lãnh thổ Căm-bốt, ngay bên kia biên giới. Tôi đã được bọn họ trả lại trả lại đôi giày bốt, nhưng đã lấy mất hai sợi dây giày và đôi vớ. Sau ba ngày đi bộ, khi lết một cách đau đớn tới cổng trại giam, đôi bàn chân của tôi đã trở nên bầy hầy, giống như hai cái hamburger còn sống.<br /><br />Trại giam này là một điển hình của những trại mà nhiều người đã từng sống qua. Trại được dựng trên một khoảnh đất trong rừng sâu, tất cả đều làm bằng tre. Chung quanh là một bức tường bằng tre, khiến người ta liên tưởng tới những tiền đồn của kỵ binh Mỹ vào thời khai phá miền Viễn Tây. Bên ngoài bức tường này lại có một bức tường khác. Giữa hai bức tường là một cái hào, giống như hào thành thời trung cổ. Dưới hào có vô số chông - là những thân tre vót nhọn, sắc bén như dao, cắm sâu dưới một lớp phân người. Nếu rớt xuống đó, không chết vì bị chông đâm vào những bộ phận trọng yếu thì bạn cũng sẽ chết vì bị mất máu, hoặc nếu không chết ngay vì những vết thương thì cũng chết từ từ vì bị nhiễm trùng. Một thân cây được bắc ngang cái hào, mà phải cố gắng giữ thăng bằng, người ta mới có thể đi trên cái "cầu" này để vào trại.<br /><br />Bên trong những bức tường tre ấy là những cái cũi, cũng bằng tre, để nhốt tù binh. Nào là quân nhân VNCH, nào là những người Thượng đồng minh của Biệt kích Mỹ; và hai người Mỹ - gồm tôi và một phi công trực thăng bị bắt trước đó một tháng. Tổng cộng, ít nhất cũng có vài trăm tù binh. Tình trạng trong trại giam thật tồi tệ. Chúng tôi sống như thú vật. Phần lớn những cái cũi để nhốt chúng tôi không đủ cao để có thể đứng dậy. Tuy nhiên điều đó cũng không cần thiết bởi vì chân chúng tôi đã bị cùm vào những cái cùm gỗ. Vì xương lưng bị gẫy, tôi không thể nằm mà phải ngồi để ngủ. Đêm đêm, lũ chuột chạy tới chạy lui trong cũi và gặm nhấm vết thương ở mắt cá chân của tôi. Vì hai chân bị cùm, tôi không thể nhúc nhích nên không có cách nào để đuổi chúng đi. Cho tới ngày nay, tôi vẫn còn ghét chuột!<br /><br />Mỗi ngày, chúng tôi được ra khỏi cũi một lần để làm công việc thải cặn bã trong cơ thể ở nhà vệ sinh dành cho tù binh. Giờ giấc mỗi ngày đều khác nhau, cho nên tù binh nào không có khả năng chờ đợi, kiềm chế, đã tự phóng uế ra quần khi đang còn bị cùm trong cũi (rất nhiều người trong số chúng tôi bị tiêu chảy). Sau khi ra khỏi cũi, chúng tôi phải đi một khoảng mới tới nhà vệ sinh ở một góc trại.<br /><br />"Nhà vệ sinh" này thực ra chỉ là vài cái hố xí để bạn phóng uế xuống. "Vấn đề" là có nhiều người trong số tù nhân bị đau yếu đã không thể nín trên đường tới hố xí, nên đã đại tiện ngay tại chỗ, khiến cả khu vực đầy rẫy những đống phân người. Một số tù nhân đau nặng, gần chết, thì được đặt trên những cái võng gần các hố xí. Khi có "nhu cầu", người nào còn đủ sức thì ráng xuống khỏi võng để tới hố, người nào kiệt sức thì đành nằm trên võng mà phóng uế ra quần. Hậu quả là cả khu vực chung quanh mấy cái hố được mệnh danh là "nhà vệ sinh" ấy đầy rẫy phân người, mà những tù nhân còn tương đối khỏe mạnh, trên đường đi tới hố xí phải cẩn thận lắm mới né tránh được. Trên đường trở về cũi, không có bất cứ phương tiện nào để chúng tôi lau chùi, rửa ráy.<br /><br />Theo ký ức của tôi thì nước uống không có "vấn đề". Nước phân phát cho tù nhân được đựng trong những ống tre. Họ nói rằng nước đã được đun sôi, nhưng tôi vẫn bị tiêu chảy một cách thậm tệ. Nhưng lương thực thì có "vấn đề". Hầu như chỉ có một món duy nhất là cơm. Vào lúc gần trưa, mỗi người được một nắm to bằng trái cam, tới xế chiều được một nắm nữa. Thỉnh thoảng, chúng tôi được "chiêu đãi" bằng những khúc rễ cây có bột, gọi là sắn dây, tương tự như rễ cây "yucca" ở châu Mỹ La-tinh. Chỉ trong vài tuần lễ, tôi đã sút mất hơn 20 ký-lô. Tôi giống như bộ xương cách trí với bộ râu dài. Trong khoảng thời gian 5 tháng, tôi không hề được cạo râu.<br /><br />Tôi không hề được chăm sóc về y tế hay được cấp phát bất cứ thứ thuốc men nào cả. Nhưng người nào cũng thế thôi. Người tù binh Việt Nam bị nhốt chung cũi, nằm cạnh tôi bị một vết thương rất nặng ở ngực, không hiểu đã được băng từ đời nào, nhưng trong suốt thời gian bị nhốt chung cũi, tôi không hề thấy anh được thay băng. Cái lỗ sâu hoắm trên ngực anh không bao giờ lành. Anh còn trẻ và tương đối khỏe, nhưng tôi biết chắc chắn anh sẽ không qua khỏi.<br /><br />Chúng tôi sống như thú vật, trong điều kiện môi trường nhơ bẩn, đói khổ, không một chút thuốc men, cho nên hầu như ngày nào cũng có người chết. Xác họ được chôn trên sườn đồi phía bên ngoài trại.<br /><br />Ngày 2 tháng 7 năm 1972, tôi được đưa ra khỏi cũi và sắp hàng cùng với một toán tù binh. Có khoảng 25 người Việt và một người Mỹ khác. Chỉ một lát sau, tôi được biết trong toán tù binh này có một phi công bị bắn hạ cùng ngày với tôi, khi anh bay chiếc khu trục A-1 Skyraider yểm trợ cho trại Polei Klang. Tên anh là Trung-úy Xanh. Tôi sẽ không bao giờ quên tên anh. Không bao giờ!<br /><br />Viên chỉ huy trại tới nói chuyện với chúng tôi, theo đó, chúng tôi sẽ di chuyển tới một trại mới, khá hơn. Nơi đó, chúng tôi sẽ được ăn uống đầy đủ hơn, và được chăm sóc về y tế; chúng tôi sẽ được nhận thư từ và bưu phẩm của gia đình gửi. Ông ta cho biết cuộc hành trình có thể sẽ kéo dài tới 11 ngày, vì thế chúng tôi phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi. Sau khi nghe ông ta nói, tôi tưởng tượng ra một trại nào đó cũng ở trong rừng, nhưng vị trí thuận tiện, có nhiều nhân viên và được tiếp tế đầy đủ hơn, nằm ở đâu đó phía bắc Căm-bốt hoặc ngay bên kia bên giới Lào. Riêng về lời cảnh giác của viên trại trưởng nói rằng chúng tôi "phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi", tôi đã chẳng mấy quan tâm. Cho tới mấy ngày sau đó.<br /><br />Với đôi chân trần, tôi bắt đầu cuộc hành trình. Các tù binh đều bị trói, người này bị cột lại với người kia bằng một sợi dây. Sau vài ngày, chúng tôi không còn bị trói nữa, vì bước đi còn không đủ sức nói gì tới chạy trốn. Tôi rất đuối, vì thiếu dinh dưỡng, vì đủ thứ bệnh không tên, và vì những vết thương lâu ngày không được chăm sóc nay đã làm độc, và ngày càng trở nên tệ hại hơn cùng với cuộc hành trình. Nhưng phải nói chính những con vắt mới là mối nguy hàng đầu; chúng không chỉ hút máu mà còn gây viêm nhiễm do các độc tố chúng truyền sang.<br /><br />Trung-úy Xanh cũng ở trong tình trạng bi đát như tôi, mỗi bước đi là một sự phấn đấu cả về thể xác lẫn nội tâm, để đối phó với sự kiệt quệ của cơ thể, sự xuống dốc của tinh thần. Bởi nếu bạn không tiếp tục bước, bạn sẽ chết. Ở cuộc sống đời thường, muốn chết bạn phải có một hành động cương quyết nào đó. Bạn phải tự sát. Nhưng một khi bạn là tù binh chiến tranh thì trong bất cứ tình huống nào, sự thể cũng trái n gược lại. Bạn phải phấn đấu từng ngày để sống sót. Còn muốn chết thì dễ quá. Cứ việc bình thản, đầu hàng một cách êm ái, là bạn sẽ chết. Nhiều người đã làm như thế. Họ chết trong trại tù đầu tiên, họ chết trên đường di chuyển. Ngay sau ngày đầu, một số người đã không chịu bò dậy nữa. Một số khác cố gắng tiếp tục cuộc hành trình nhưng rồi cũng lần lượt bỏ cuộc. Trong lúc đoàn người tiếp tục tiến bước, mỗi khi nghe một hay vài tiếng súng nổ ở phía sau, họ biết họ sẽ không bao giờ còn gặp người tù binh đáng thương ấy nữa. Toán 27 tù binh chúng tôi đã mất ít nhất là nửa tá trong hoàn cảnh nói trên, và tới lúc cuộc hành trình kết thúc, Wayne Finch, người tù binh Mỹ duy nhất ngoài tôi ra, cũng đã bỏ mạng.<br /><br />Cuộc di chuyển không kéo dài 11 ngày, và đích tới cũng không phải là một trại tù nào đó nằm trong khu vực. Mà là một cuộc hành trình gian khổ kéo dài 3 tháng, đưa chúng tôi vượt gần 1000 cây số, ngược đường mòn Hồ Chí Minh, và cuối cùng hướng về Hà Nội, thủ đô của miền Bắc. Thật là một cơn ác mộng – một cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Mỗi một bước, với tôi là một sự đau đớn tận cùng thân thể. Các vết thương làm độc ngày càng tệ hại. Tử thần đã kề bên. Cái chân bị thương đã sưng phù lên gấp đôi bình thường, với những vết nứt dài, từ đó chảy ra một thứ mủ cực kỳ hôi tanh.<br /><br />Bệnh tiêu chảy của tôi càng thêm tồi tệ, lại còn bị tới 3 loại sốt rét khác nhau cùng với vô số ký sinh trùng trong ruột. Mỗi cuối ngày, khi tôi kết thúc cuộc hành trình trên dưới 10 cây số, thần chết cứ lảng vảng bên cạnh. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi thức giấc, tôi phải phấn đấu để cố đứng dậy, máu dồn xuống cái chân bị thương cùng với sức nặng của thân hình đè xuống, tạo ra một cảm giác đau đớn vô cùng tận. Và Trung-úy Xanh, mặc dù bản thân cũng trong tình trạng hết sức tệ hại, luôn luôn hiện diện để khích lệ tôi, giúp đỡ tôi với tất cả sức lực còn lại nơi anh. Tới bữa chiều, chúng tôi được phát một nắm cơm nhỏ. Xanh nói với tôi đây không phải là cách ăn uống bình thường của người Việt. Người Việt rất coi trọng bữa ăn, và có nhiều món ăn ngon lắm. Đừng đánh giá văn minh ẩm thực của Việt Nam qua những gì chúng tôi đang được cấp phát. Tôi cố gắng duy trì đầu óc khôi hài. Đây là một việc rất khó khăn nhưng tối cần thiết. Tinh thần là yếu tố quan trọng nhất trong việc sống còn, và kể cả khi tình hình trở nên tuyệt vọng nhất, óc khôi hài sẽ giúp bạn giữ vững được tinh thần – từ đó nảy sinh hy vọng. Và trong việc này, Trung-úy Xanh cũng lại giúp đỡ tôi. Anh luôn luôn quan tâm tới tôi, và làm bất cứ những gì anh có thể làm để giúp tôi giữ được lạc quan, hy vọng. Vì thế, cho dù tình hình càng ngày tồi tệ, tôi chưa bao giờ mất hy vọng. Kể cả trong cái ngày mà đáng lẽ ra tôi đã chết, nếu như không có Xanh.<br /><br />Mỗi ngày, tôi đã phải sử dụng toàn bộ ý chí để thức dậy, đứng lên và bước đi. Rồi tôi phải phấn đấu hết mình trong suốt ngày hôm đó để tiếp tục tiến bước trên con đường mòn dài vô tận. Tôi đã không còn đứng vững, nhưng bằng cách nào đó, tôi vẫn hoàn tất mục tiêu của mỗi ngày, để sáng hôm sau mở mắt chứng kiến thêm một bình minh nữa mà Thượng Đế đã ban cho.<br /><br />Nhưng rồi tới một ngày tệ hại nhất trong đời. Tôi đã phấn đấu hết mình. Tôi lảo đảo muốn ngã xuống. Tôi cố gắng vận dụng hết sức lực. Tôi loạng quạng bước đi. Rồi tôi lại lảo đảo, tôi cố gắng phấn đấu, tôi vận dụng toàn bộ sinh lực còn sót lại, và tôi cầu nguyện xin có thêm sức mạnh. Rồi tôi ngã gục, tôi bò dậy tiếp tục đi, nhưng rồi lại ngã gục. Tôi lại tiếp tục phấn đấu, phấn đấu với tất cả những gì còn lại trong cơ thể, trong trái tim, trong linh hồn. Nhưng rồi tôi lại ngã gục, và lần này tôi không thể đứng dậy được nữa. Ý chí của tôi vẫn còn, nhưng cơ thể đã hoàn toàn kiệt lực. Cuộc đời của tôi đến đây là tận. Quân thù đến kia rồi; tên vệ binh nhìn xuống, ra lệnh cho tôi bò dậy, nhưng tôi không thể. Hắn quát tháo lớn hơn, tôi vẫn bất động. Coi như xong đời!<br /><br />Nhưng Xanh đã tiến tới, vẻ mặt lo âu, cúi xuống nhìn tôi. Mặc cho tên vệ binh quát tháo, xua đuổi, Xanh vẫn không chùn bước. Khi hắn quát tháo dữ dội hơn, nét mặt Xanh bỗng trở nên đanh thép lạ thường, và bất chấp những lời đe dọa của tên vệ binh, Xanh cúi xuống vực tôi dậy, rồi kê cái lưng ốm yếu cho tôi gục lên, để hai cánh tay của tôi ôm vòng lấy cổ anh, hai cổ tay ghì chặt, và với tư thế ấy, anh đã kéo tôi lết theo cho tới cuối ngày. Đôi lúc, có một tù nhân khác tạm thay thế Xanh, nhưng phải nói gánh nặng trong ngày hôm ấy dồn hết lên vai anh Xanh là người đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng để lo lắng và chăm sóc tôi cho tới khi kết thúc cuộc hành trình ngày hôm đó.<br /><br />Sáng hôm sau, tôi trải qua mọi đau đớn thường lệ trong việc thức dậy, đứng dậy và cố gắng lê lết cái chân bị thương trong những bước đầu tiên, để tạo quyết tâm cho một ngày sắp tới. Tôi cảm thấy đau đớn như chưa từng thấy nhưng vẫn cố gắng vận dụng ý chí để bước đi. Ngay phía bên ngoài cái trại vừa dừng chân là cây "cầu" bằng một thân cây lớn bắc ngang một dòng nước chảy xiết xen lẫn những tảng đá lớn. Tôi bắt đầu băng qua, cố gắng giữ thăng bằng nhưng không còn sức lực mà cũng chẳng còn một chút ý thức gì về thăng bằng nữa. Cái chân bị thương vô dụng kia đã hại tôi, kéo tôi nghiêng về một phía khiến tôi loạng quạng và cuối cùng rớt xuống sông. Xanh và Wayne đang đi phía trước, vội vàng quay trở lại phía bên này, lội xuống vào kéo tôi lên bờ. Họ năn nỉ đám cộng sản cho phép cả toán tù binh tạm dừng chân tại trại này cho tới khi nào tôi đủ sức tiếp tục cuộc hành trình, nhưng bị từ chối. Xanh và Wayne nhất định không chịu rời tôi. Cho tới khi đám vệ binh tiến tới, dí súng vào người và lôi cổ họ đi. Nhìn bóng hai người khuất dần cùng với toán tù binh, tôi biết mình sẽ không bao giờ gặp lại Xanh trên cõi đời này nữa!<br /><br />Bởi vì, như các bạn tù đồng cảnh ngộ đều biết, trong trường hợp này, tôi bị bỏ lại trại để chết – như nhiều người khác đã chết. Thế nhưng không hiểu vì nguyên nhân hay lệnh lạc nào đó, đám cộng sản lại quyết định chích penecillin cho tôi trong mấy ngày liền. Tôi bắt đầu bình phục, và sau một khoảng thời gian ngắn, đã có thể đứng dậy. Và ngay sau khi tôi đủ sức bước đi, đám cộng sản đã ra lệnh cho tôi tiếp tục cuộc hành trình. Lần này, tôi đi chung với một đoàn bộ đội di chuyển về hướng Bắc, một tay vệ binh được chỉ định đi theo tôi làm công việc áp giải.<br /><br />Cuộc hành trình cũng gian khổ như những đoạn đường đã qua, nhưng với tôi, những gì kinh hoàng nhất đã được bỏ lại sau lưng. Thậm chí tôi còn có cơ hội chạy trốn: một ngày nọ, khi đi tới một khúc quẹo và khuất tầm nhìn của tên vệ binh đi phía sau, tôi đã bỏ chạy vào rừng. Nhưng rồi hắn đã mau chóng lần ra dấu vết và đuổi kịp; mặc dù tỏ ra vô cùng giận dữ, hắn đã không bắn tôi chết, mà chỉ hung hăng chĩa súng ra lệnh cho tôi quay trở lại. Sau đó, khi bắt đầu tiến vào lãnh thổ Bắc Việt, tôi được cho nhập bọn với một đoàn tù binh VNCH, và cuối cùng, tới Hà Nội. Nơi đó, sau khi đã trải qua mọi thủ tục và nhiều nhà tù khác nhau, tôi được đưa tới "khách sạn Hilton - Hà Nội" lừng danh (tức nhà tù Hỏa Lò), và ở đó cho tới khi được trao trả vào giai đoạn cuối của cuộc chiến..<br /><br />Ngay sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi đã đi tìm hỏi tin tức về Trung-úy Xanh nhưng không có kết quả. Tôi đã tìm gặp các quân nhân Việt Nam đang thụ huấn tại Mỹ, cũng không ai biết gì. Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975, tôi càng ra sức tìm kiếm, để rồi lại bị thất vọng.<br /><br />Mấy năm sau, tôi được dịp tái ngộ với một quân nhân VNCH đi chung với tôi trong toán tù binh thứ nhất, cùng với một người khác trong toán thứ hai, tên là Phạm Văn Tăng và Nghiêm Kế. Tôi nhờ họ giúp đỡ trong việc tìm kiếm tin tức về Trung-úy Xanh. Lúc đầu, không có kết quả gì cả. Về sau thì có tin đồn nói rằng sau khi Sài Gòn thất thủ, Xanh đã bị cộng sản bắt lại và có lẽ đã chết sau nhiều năm gian khổ trong tù. Nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có ngày được biết đích xác những gì đã xảy ra cho Xanh, và có thể cả những tin tức liên quan tới gia đình anh.<br /><br />Trong những năm gần đây, tôi ra sức tìm kiếm trên internet, nhưng luôn luôn thất bại. Thế rồi cách đây mấy tuần lễ, tôi tình cờ khám phá ra trang mạng của các hoa tiêu bay khu trục A-1 Skyraider của Không Quân VNCH, trong đó có một số người cùng phi đoàn với Xanh ngày trước. Tôi gửi cho "trang chủ" mấy lời nhắn tin, và chỉ vài ngày sau, tôi đã liên lạc được với Xanh bằng email, và sau đó qua điện thoại – lần đầu tiên sau 35 năm, chúng tôi mới được nói chuyện với nhau. Tôi sẽ gặp lại Xanh trong một ngày gần nhất, có thể là mùa thu này. Tôi sẽ được nhìn thấy anh lần đầu tiên kể từ cái ngày tôi nằm lại bên đường mòn Hồ Chí Minh, mắt nhìn theo con người đã cứu mạng mình – đang bị vệ binh dí súng cưỡng ép bước qua cây cầu, trong lòng đau đớn vì phải bỏ tôi ở lại để chờ chết.<br /><br />Xanh đâu có ngờ chính những cố gắng giúp đỡ tận tình của anh trong những ngày đen tối nhất đời tôi, đã trở thành động lực để tôi phấn đấu cho sinh mạng của chính bản thân mình – tôi không thể để uổng phí công lao của Xanh. Tất cả những gì Xanh làm đã giúp tôi sống sót, và chính những hành động quên bản thân của anh đã giúp tôi có thêm nghị lực và quyết tâm để vượt qua bất cứ khó khăn, trở ngại nào trong thời gian chờ đợi ngày được trả tự do.<br /><br />Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một người bạn như Xanh - vào lúc mà tôi cần tới sự giúp đỡ của anh hơn lúc nào hết; và giờ đây, xin cám ơn trời một lần nữa, vì đã cho tôi tìm lại được người bạn quý mến ấy.<br /><br /><strong>Đại Tá W.S. Reeder</strong><br /></div><div align="justify"> </div>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8655961163106877539.post-31773579953006078302010-01-09T18:19:00.003+11:002010-01-09T19:11:18.348+11:00"Hòa Bình" Ơi ! Vĩnh Biệt Chào Mi - Đoàn Trọng Hiếu<ul><p align="justify"><span style="font-size:130%;color:#000066;"><strong>"HÒA BÌNH" ƠI ! VĨNH BIỆT CHÀO MI</strong></span></p></ul><p align="justify"><strong><em><span style="font-size:85%;">Đoàn Trọng Hiếu</span></em></strong><br /><br /><em><span style="font-size:85%;color:#000066;">Gần đến ngày ngưng bắn 27-01-1973 của 37 năm về trược Xin kính gởi Quý Anh Chị Hồi Ký Chiến Trường</span></em><br /><br />Vào những ngày cuối tháng 1 năm 1973 trước khi Hiệp Định Paris được ký kết. Lúc đó Liên đoàn 3 BĐQ vừa trở lại Bình Long để tiếp tục trấn giữ phòng tuyến mà mấy tháng trước đây Liên đoàn đã hãnh diện được sát cánh cùng nhiều đơn vị ưu tú của QLVNCH quyết tử thủ để giữ vững tỉnh lỵ này, đã cùng quân dân cả nước viết lên thiên hùng ca BÌNH LONG ANH DŨNG, KONTUM KIÊU HÙNG, TRỊ THIÊN VÙNG DẬY.<br /><br />Chiều ngày 26 tháng 1 năm 1973, vừa mới về đến căn cứ Lam Sơn sau hai ngày đại đội hành quân đơn độc thăm dò họat động địch cách căn cứ Tống Lê Chân khoảng 5 km về hướng đông, chưa kịp tắm rửa thì được gọi lên BCH/TĐ họp, vừa vào đến tôi đã thấy đầy đủ mặt bá quan văn võ, tiểu đoàn trưởng thiếu tá Trần Đình Nga, tiểu đoàn phó thiếu tá Huỳnh Công Hiển, trưởng ban 3 thiếu tá Nguyễn Thế Kỳ, đđt/ đđ1 đại úy Phạm Bá Thọ, đđt/đđ2 trung úy Nguyễn Văn Phú, đđt/đđ3 đại úy Nguyễn Văn Huy và đđt/đđ4 là tôi trung úy Đoàn Trọng Hiếu cùng các sĩ quan tham mưu khác. Sau khi trưởng ban 3 thuyết trình hành quân nêu rõ mục đích của cuộc hành quân là ''dành dân chiếm đất" mở rộng vùng hoạt động trước khi Hiệp Định Paris sẽ được thực thi vào 8 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, đại đội 2 và đại đội 4 của chúng tôi được giao nhiệm vụ tham dự cuộc hành quân này duới sự chỉ huy của thiếu tá Hiển tiểu đoàn phó, đại đội 4 được giao nhiệm vụ làm nỗ lực chính hay nói nôm na là húc và đại đội 2 đi sau với bộ chỉ huy nhẹ, nói là bộ chỉ huy nhẹ cho nó oai chứ vỏn vẹn chỉ có tiểu đoàn phó và hai người mang máy truyền tin PRC25, cùng hoạt động song song với chúng tôi là hai đại đội của tiểu đoàn 31 BĐQ do thiếu tá Đào Văn Năng chỉ huy. Sau khi báo cáo khả năng tham chiến của đại đội là 73 người, đây là con số khá cao của một đại đội BĐQ, lần cao nhất là 89 khi tôi dẫn đại đội nhảy vào tử thủ 3 tháng cũng tại Bình Long này vào ngày 6 tháng 4 năm 72 trước đây. Tôi nhận một bản photo Hiệp Định Paris và gần chục lá cờ VNCH và toan đứng dậy trở về phòng tuyến đại đội thì thiếu tá Hiển gọi tôi lại và kéo tôi về hầm của ông.<br /><br />- Vào đây làm ly cà phê đã mày, để tao nói tụi nó gọi thượng sĩ Thóc (thường vụ đại đội) lên cho mày.<br /><br />Nói xong ông kêu anh đệ tử làm hai cái phin và bước sang hầm truyền tin bảo gọi th/s Thóc, trong lúc chờ đợi tôi leo lên nóc hầm ngồi và châm điếu Bastos xanh hít một hơi dài rồi lãng đãng nhả khói thành từng chữ O nhỏ, lúc phin càphê vừa ngưng chảy thì th/s Thóc đến, tôi bảo ông mang người lên lãnh hai ngày lương tươi và gọi các trung đội trưởng nửa tiếng nữa lên gặp tôi tại ban chỉ huy đại đội. Nhắp từng ngụm càphê, tôi tận hưởng mùi vị thơm và đắng của càphê và vị cay nồng khét lẹt của thuốc lá Bastos xanh quen thuộc từ ngày còn đi học, tôi chợt cất tiếng.<br /><br />- Thiếu tá gọi tôi lại có chuyện gì không vậy ?<br /><br />- Thì mày cứ uống càphê đi có gì gấp gáp đâu, tao biết dạo này mày có phần hơi buồn vì ông Dậu không đề nghị thăng cấp đại úy cho mày trong trận Bình Long lý do lúc đó mày mới lên trung úy, kể ra thì cũng thiệt thòi, đám sư đoàn 5 và các đơn vị khác nó đều lên hết, tao đéo hiểu mất mát gì mà ổng làm như vậy, ông Thiệu đã tuyên bố mỗi người thăng một cấp thì cứ đề nghị thăng một cấp.<br /><br />- Đó cũng là lý do thằng Đỗ Mạnh Trường sau khi xuất viện không trở về nữa, thôi chuyện cũ qua rồi quẳng nó sang một bên để vui sống, có điều tôi thắc mắc nhưng không tiện nêu ra trong buổi họp, tại sao không là đại đội nào khác húc ngày mai mà lại là đại đội tôi, thiếu tá cũng biết đại đội tôi vừa mới lội về, tôi thì không sao nhưng anh em lính tráng nó sẽ cho rằng tôi bị đì dễ nảy sinh bất mãn.<br /><br />- Đây không phải là ý của anh Nga mà là ý của tao, mấy đại đội trưởng kia mới quá, thằng Huy và thằng Thọ lại vừa từ BB chuyển sang, tao đi với mày từ ngày còn bên Campuchia, rồi về giải tỏa Bình Ba Bình Giả, Hưng Lộc, Trảng Bom, có mày tao yên tâm hơn.<br /><br />Tôi chợt nói đùa với ông như chúng tôi vẫn thuờng đùa như vậy<br /><br />- Chứ không phải ông lùa tôi ủi để ông bắt cái tiểu đoàn trưởng 36, đại tá Biết biết ông nhắm cái đó nên cứ nhử ông hoài, hai lần ở Hưng Lộc và Trảng Bom tí nữa chết vì ông may nhờ có cái bùa "lỗ mãng" nên thoát nạn, mẹ kiếp đúng là vô chiêu phá hữu chiêu chẳng có bài bản gì cứ nổ một cái là xung phong, mấy cái chốt hãi quá bung nóc hầm mà chạy, kiểu đánh giặc của các đàn anh Trần Thanh Thủy và Đào Văn Năng vậy mà vẫn còn hiệu quả, cái đám vịt con (VC) của hai trung đoàn 33 và 274 chủ lực miền chỉ ngửi cứt cọp 52 Sấm Sét Miền Đông là lo chém vè. Thôi tôi về cho em út chuẩn bị rồi làm một giấc cho tỉnh táo, đêm qua có ngủ gì đâu, đámVC cứ nhá đèn hiệu ở xa, mẹ ! cứ sợ chúng tập trung để tấn công nên cho báo động ứng chiến cả đêm.<br /><br />Về đến phòng tuyến, vừa chui vào hầm đã thấy thiếu úy Vũ văn Nghị đại đội phó, chuẩn úy Thập Lở trung đội trưởng tr/đ 1, chuẩn úy Nguyễn Minh Châu trung đội trưởng tr/đ2, thượng sĩ I Thanh trung đội trưởng tr/đ 3, cả ba trung đội trưởng này trước đây đều ở trong các đơn vị dân sự chiến đấu sau cải tuyển sang BĐQ năm 1970, thượng sĩ Thóc thường vụ cũng đã có mặt. Trải tấm bản đồ lên bàn tôi chậm rãi.<br /><br />- Ngày mai 7 giờ sáng mình sẽ tập trung tại sân bay An Lộc, từ đây sẽ đi dọc theo các chốt của tiểu đoàn 36 đến tuyến xuất phát là ấp Bemoi, đại đội mình đi đầu theo sau là đại đội 2 lấy Quốc lộ 13 làm trục tiến quân, mục tiêu A, B, C và D là cầu Cần Lê, bên trái mình bên kia QL13 là hai đại đội của tiểu đoàn 31 với các mục tiêu song song là 1, 2, 3 và 4. Vẽ cho đẹp mắt vậy thôi chứ chưa chắc gì đã qua được cái A vì chúng sẽ chốt dầy đặc, còn nếu đến được cái D thì coi như đã gần tái chiếm lại Lộc Ninh. Ngày mai trung đội 1&2 sẽ đi cùng thiếu úy Nghị bên cánh phải dọc theo dưới suối để tạo bất ngờ, điều này có hơi nguy hiểm nên cố nương theo các lùm tre hạn chế tiếng động và coi chừng bị phục kích, khoảng cách giữa các ông và tôi trên 200 mét rừng tre nên không thấy nhau được, nếu thấy sột soạt ở bên cạnh là cứ việc nổ, đoạn đường trên 500 mét rừng tre không đáng ngại lắm nhưng khi vào tới bìa rừng cao su thì phải thật cẩn thận, lúc đó các ông sẽ ép trái để dễ quan sát và yểm trợ cho nhau, nhớ dặn anh em tuyệt đối giữ im lặng và cấm hút thuốc, luôn sẵn sàng tác chiến. Đại đội 2 sẽ có một trung đội bảo vệ phía sau cho các ông. Có ông nào có ý kiến gì không? thiếu úy Nghị thế nào?<br /><br />- Tôi đề nghị mình nên mang theo cây cối 60 để có thể yểm trợ cấp thời, nếu được thì xin phở bò làm cho vài quả sâu bên trong bìa rừng cao su 100 mét trước khi mình vào mục tiêu A.<br /><br />- Tôi sẽ gặp sĩ quan đề lô yêu cầu tác xạ vào các mục tiêu trước khi mình vào, nhưng điều này coi bộ khó quá, từ xưa đến giờ họ chỉ bắn cho mình khi chạm địch, ước gì mình có pháo binh cơ hữu như thằng dù thì hay biết mấy, thứ con ghẻ như bọn mình nó chỉ biết xài như cái mền rách còn quyền lợi thì đíu có, kiếp này lỡ yêu cái mũ nâu rồi kiếp sau xin tởn tới già. Thôi các ông lấy mỗi người 3 lá cờ về nghỉ ngơi chuẩn bị cho ngày mai .<br /><br />Mọi người đứng dậy về vị trí. Sau khi tắm sơ một cái và ăn tạm gói mì, tôi quay điện thoại lên tiểu đoàn xin gặp sĩ quan đề lô pháo binh yêu cầu tác xạ các mục tiêu ngày mai, viên sĩ quan cho biết sẽ chuyển yêu cầu của tôi về pháo đội, mẹ kiếp cả mặt trận Bình Long do hai liên đoàn 3 và 5 và hai tiểu đoàn địa phương quân hoạt động mà chỉ có một pháo đội 105 và hai khẩu đội 155.<br /><br />Mờ sáng hôm sau anh em đã dậy chuẩn bị cơm nước cho cả ngày, tôi nhắc các trung đội kiểm tra đạn dược cho đầy đủ và yêu cầu hạ sĩ 1 Sơn Lót cho khẩu đội súng cối mang theo 3 thùng đạn đồng thời 2 hộp đạn cho cây XM202, đây là loại vũ khí chống chiến xa rất hiệu quả. Châm điếu thuốc và nhìn đồng hồ 6:45, tôi nốc cạn ly càphê và lệnh cho đại đội di chuyển theo đường tắt đến sân bay An Lộc, đại đội 2 cũng lục tục theo sau, từ sân bay sau khi tiểu đoàn liên lạc hàng ngang với tiểu đoàn 36 BĐQ để yêu cầu xác nhận lần cuối mọi mìn bẫy đều đã được gỡ, chúng tôi đi dọc theo các chốt của TĐ36 để đến tuyến xuất phát, khai triển đội hình xong tôi gọi các trung đội trưởng và thiếu úy Nghị lại gặp trước khi xuất phát.<br /><br />- Tác Giả, đang ngồi cùng đơn vị Các ông phải tuyệt đối thi hành những điều đã trao đổi hôm qua, đây là cuộc hành quân quan trọng hơn tất cả các cuộc hành quân trước, vì ngày mai là ngày ngưng bắn, tôi không muốn có những khinh xuất có hại cho đại đội, nói đúng hơn là không muốn có những cái chết lãng nhách do sự tắc trách của chúng ta, trongtrường hợp chạm địch phải bám chặt lấy địa thế và xử dụng tối đa phi pháo có được, an toàn cho đơn vị là ưu tiên hàng đầu, mình có thể còn phải đánh giặc cả đời chứ không phải chỉ còn có hôm nay, thôi các ông về vị trí chuẩn bị Zulu.<br /><br />Lồng ngực tôi căng phồng như muốn vỡ ra, không phải vì lạnh cẳng, vì suốt mấy năm qua rong ruổi hành quân tôi chưa hề cảm thấy sợ sệt, mặc dù tôi cũng có vợ con, cha mẹ anh em như nhiều người khác, tôi vẫn yêu đời lính trận, và gắn bó với đơn vị như một phần của gia đình tôi, nếu muốn có một cuộc đời an nhàn "sáng vác ô đi tối vác về" thì tôi cũng đã có thể có được sau khi tham dự "Mùa Hè Đỏ Lửa" tại mặt trận Bình Long, vì một lần vào thăm ông chú tôi tại cư xá Trần Hưng Đạo trong Bộ TTM, tôi có gặp đại tá C là bố vợ chú tôi, ông từng có thời gian là trưởng phòng TQT/BTTM, ông ngỏ ý nếu tôi muốn ông có thể giúp tôi về một đơn vị không tác chiến, tôi đã cám ơn vì tôi bay nhảy quen rồi. Hít một hơi thật sâu rồi bảo hai người mang máy.<br /><br />- Lệnh cho các thằng em xe pháo (xuất phát) và báo cho 522 (tiểu đoàn phó) rõ.<br /><br />Chúng tôi di chuyển thật chậm, vì rừng tre gai dầy đặc nhiều chỗ phải bò, các toán khinh binh đi đầu không được phát quang vì sẽ gây tiếng động, những con vắt trên những lá tre đang ngo ngoe đánh hơi người nhẩy xuống, không khí thật ngột ngạt, dường như mọi người đều căng thẳng không ai dám bật tiếng ho, chưa bao giờ căng thẳng như vậy, 3 tháng tử thủ Bình Long những lúc bị chiến xa tấn công, hay ngày triệt thoái khỏi Dambe sau khi tướng Đỗ Cao Trí tử nạn cũng chưa căng thẳng như bây giờ, gần một tiếng đồng hồ chỉ nhúc nhích được hơn trăm thước, thêm hai tiếng đồng hồ nữa trôi qua, chỉ còn hơn trăm thước nữa là chúng tôi sẽ bám vào bìa rừng cao su, tôi nói hạ sĩ Vinh mang máy nội bộ gọi Thái Thanh (th/u Nghị),Thanh Lan (Th/u Thập Lở), Khánh Ly (Ch/u Châu) và Lệ Thu (Th/s Thanh) vào đầu máy gặp tôi.<br /><br />Âm thanh lần lượt trả lời thật nhỏ vang trong ống liên hợp của Thiếu úy Nghị và các trung đội trưởng. Tôi chậm rãi ra lệnh.<br /><br />- Khi gần đến bìa rừng cao su Thanh Lan và Lệ Thu cho con cái dừng lại bố trí rồi cho một tổ khinh binh bò vào quan sát trước, nhớ nhắc tụi nó thật cẩn thận, nếu có gì khả nghi đích thân các anh phải lên kiểm tra và báo cho tôi ngay, tuyệt đối tránh gây tiếng động, nhận rõ chưa.<br /><br />Tôi nghe trong ống liên hợp cùng trả lời<br /><br />-Nhận rõ Minh Hiếu 5<br /><br />Thời gian qua đi thật chậm, cả đại đội lại nhúc nhích từng bước một, bỗng có dấu hiệu dừng lại truyền từ đằng trước xuống, hơn mười phút sau thiếu úy Thập Lở báo cho biết đã phát hiện một toán việt cộng ở bên trái khoảng cách gần trăm mét ở hàng cao su thứ hai nhưng vì cỏ tranh cao nên không rõ quân số bao nhiêu. Tôi cho gọi các trung đội trưởng vào đầu máy.<br /><br />- Thái Thanh (đđ phó) cho thằng 1 dàn phía trước, tìm vị trí tốt cho con gà cồ M 60, thằng 2 lên cao bảo vệ hông phải cho thằng 1, thằng 3 cũng dàn về phía trước, địch đang ở bên phải của anh, nhớ khai hỏa đồng loạt, khi tất cả vào vị trí Thái Thanh sẽ hạ lệnh khai hỏa. Tất cả thi hành.<br /><br />Tôi báo cho th/t Hiển biết là đã phát hiện địch và đang cho khai triển đội hình tấn công, yêu cầu đề lô cho pháo binh chuẩn bị tác xạ vào tọa độ X, hạ sĩ nhất Sơn Lót đã đặt xong cây cối 60. Không đầy 5 phút sau mọi trung đội đã vào vị trí thì lệnh khai hỏa bắt đầu, hỏa lực của hai trung đội 1&3 được tập trung bắn chéo cánh sẻ đan thành lưới đạn khiến bọn VC bị bất ngờ hoảng hốt, vài tên bị đốn ngã, gần chục tên khác bỏ chạy về phía sau, đơn vị VC ở phía sau bắt đầu đáp trả bằng nhiều loại vũ khí cá nhân cũng như cộng đồng, tôi ra lệnh cho các trung đội tiến chiếm lấy 3 hàng cao su để có chỗ che chắn tránh thiệt hại bởi B40, yêu cầu pháo binh tác xạ khẩn cấp vào tọa độ đã yêu cầu trước, vì tác xạ qua đầu và khoảng cách giữa ta và địch chỉ hơn trăm thước nên sau 3 lần điều chỉnh cắt đoạn để tránh tản đạn tôi yêu cầu bắn hiệu quả trung đội 10 quả, bọn VC cũng chẳng vừa cối 82 và 107 của chúng từ trong phía đông Quản Lợi bắt đầu rót vào trận địa nhưng không chính xác, pháo 130 từ hướng Lộc Ninh cũng rót vào thành phố để quấy rối, lúc này nhiều đơn vị cũng đã chạm địch, đạn nổ từ phía Quản Lợi, phía Phú Lô, phía nam Xa Cam, phía bên trái chúng tôi là đơn vị của tiểu đoàn 31 cũng bắt đầu chạm phía cao hơn chừng vài trăm thước, mẹ kiếp đụng khắp nơi mà chỉ có vài khẩu pháo thì thằng nào ăn thằng nào nhịn, khẩu đội súng cối 60 bắt đầu yểm trợ nhỏ giọt cho tuyến trên rất hiệu quả. Hơn một giờ giao tranh đã có 4 binh sĩ bị thương được chuyển ra phía sau nhờ đại đội 2 tải thương, bỗng có đại úy Khuê phụ tá ban 3 liên đoàn cần gặp, tôi vội cầm ống liên hợp<br /><br />- Minh Hiếu tôi nghe đây Kinh Kỳ<br /><br />- Có mấy con đại bàng lên, giành mãi mới được, tao giao nó cho mày, con Loan 19 nó sẽ liên lạc với mày trong vòng dăm phút nữa khi nó vào vùng, nhớ đánh cho có hiệu quả hàng đang khan hiếm đừng phung phí, ông già (đại tá Biết liên đoàn trưởng) gởi lời thăm nhắc mày cẩn thận.<br /><br />Bọn VC có lẽ đã ước đoán được lực lượng của chúng tôi nên chúng đột nhiên nổ súng dữ dội để áp đảo rồi cho một lực lượng khoảng 30 tên xuất kích chọc thẳng vào khoảng cách giữa hai trung đội, có lẽ chúng muốn đánh thẳng vào ban chỉ huy đại đội, hoặc sẽ đánh bọc đít cánh quân bên phải, mặc dù tuyến trên cũng xử dụng tối đa hỏa lực ngăn cản nhưng chỉ gây thiệt hại và làm chậm sức tiến của chúng, những tên đi đầu đã lọt được vào khu rừng tre, tôi vội vàng xin đại đội 2 dâng lên cao hơn gần tôi để dễ tiếp cứu. May mắn vừa lúc đó chiếc L19 đã quần trên đầu<br /><br />- Mũ nâu đây Loan mắt nhung nghe được tôi không trả lời.<br /><br />Cầm ống liên hợp do Hạnh đưa tôi vội trả lời:<br /><br />- Mũ nâu tôi nghe bạn rất tốt, tôi cần mấy đứa em bạn đánh liền<br /><br />- OK chúng đang chờ, tôi chỉ cho bạn một nửa vì còn dành cho đơn vị khác, xin chỉ định mục tiêu ngay.<br /><br />Tôi quyết định thật nhanh nhưng cũng thật táo bạo và nguy hiểm<br /><br />- Tôi sẽ quăng trái khói đỏ, từ đó bạn đánh về đông 50, bắc 50, Xin đánh theo trục nam-bắc vì chúng tôi đang ở hai bên của mục tiêu không đầy 100 thước.<br /><br />- OK nhận bạn rõ, bạn yên tâm đây là bọn A 37 nên rất chính xác, cho quăng trái khói liền.<br /><br />Tôi rút vội trái khói đỏ dùng hết sức ném về hướng đông, và lệnh cho các trung đội nằm rạp xuống để tránh bom<br /><br />- Thấy rồi, sẽ làm đúng ý bạn, xin cho con cái cẩn thận. Từ đằng sau chiếc A37 xuống thật thấp trút bom, hai tiếng nổ tưởng như rách màng tai, sức chấn động nhấc người tôi lên khỏi mặt đất làm rơi chiếc mũ sắt, chưa kịp nhặt lên thì chiếc thứ hai đã lao xuống, hai trái napal tạo thành một biển lửa nóng rát mặt, gần chục tên may mắn sống sót sau trận bom chạy thục mạng về, có vài tên sợquá đã la lên:<br /><br />- Đừng bắn nữa các anh Biệt Động Quân ơi! mai hòa bình rồi.<br /><br />Chiếc L 19 cho biết đã đánh rất chính xác theo yêu cầu, chào tạm biệt và rời vùng. Thêm 3 binh sĩ bị thương nhẹ vì chấn động và đất đá văng vào, phi tuần A37 với hai pass bom liều mạng đã xoay chuyển tình hình, đám VC có lẽ đã xuống tinh thần sau thất bại thảm hại của lần xuất kích, cường độ của trận đánh cũng bắt đầu giảm dần theo ánh chiều tà, mới 4 giờ chiều trong rừng cao su đã không còn ánh nắng, súng nổ cũng đã ngớt dần rồi im hẳn, th/u Nghị hỏi tôi có cho lục soát mục tiêu không, tôi gọi th/u Nghị vào máy dặn dò.<br /><br />- Tao nghĩ thế đủ rồi, không cần thiết phải lục soát, đám VC chắc không dám phản công nữa đâu, mày có nghe tụi VC bỏ chạy chúng la cái gì không? chẳng biết hòa bình hư thực thế nào nhưng thằng lính đéo nào mà chả mong, rất may mình chỉ có 7 em bị thương nhưng không nặng lắm chỉ đủ để về quân y viện nằm ít ngày, mày cho anh em thay phiên canh chừng và cho lui về bìa rừng tre đào hố phòng thủ hai người, tối đến trước khi lui về tuyến phòng thủ cho anh gài hết đồ chơi, đêm nay tuyệt đối không ai đuợc cởi giầy, hai người một hố thay nhau thức, ráng sống đến ngày mai để nhìn hòa bình, bên đây tao và thằng 3 cũng làm như vậy.<br /><br />Nói xong tôi cho gọi th/s nhất Thanh và th/s Thóc đến dặn dò, rồi gọi cho thiếu tá Hiển tiểu đoàn phó trình bày ý định và được ông đồng ý, ông cũng cho biết ông và đại đội 2 sẽ đóng quân tại tuyến xuất phát, nhưng vẫn để một trung đội nằm đằng sau cánh quân bên phải chừng 200 thước. Sau khi khai triển hệ thống phòng thủ, tôi thiết lập các điểm tiên liệu pháo binh và gởi cho sĩ quan đềlô, hơn một giờ sau th/u Nghị báo cáo hệ thống hầm hố phòng thủ đã xong, mọi hố đôi đều được đào đủ sâu và rộng cho hai người, tôi cũng đích thân kiểm tra phòng tuyến bên này, quả thật khác với những lần đóng quân đêm trước, lần này chẳng cần đôn đốc nhắc nhở, ai cũng muốn mình còn sống để sáng sớm mai đây được nhìn thấy hòa bình nên hố nào cũng đạt yêu cầu.<br /><br />Mẹ kiếp ! ngày mai hòa bình thằng đếch nào mà chẳng muốn sống. Tôi cũng thế, sau hơn 4 năm quen đời lính trận, vẹt gót giày sô từ chiến trường nội địa đến ngoại biên, chưa một lần đi phép thường niên để có đủ 7 ngày phép bù khú với vợ con, bạn bè đồng đội nhiều thằng đã thành tàn phế, cũng có nhiều thằng đã về vùng 5 miên viễn chiêm bao, lớn lên và trưởng thành trong chiến tranh tôi cũng khát khao được sống để nhìn cuộc chiến tàn lụi, trên cương vị đại đội trưởng tôi cũng không muốn bất cứ thuộc cấp nào phải chết trong ngày và đêm hôm nay, làm sao tôi có thể trả lời khi có người hỏi tôi <em>"trung úy ơi! hòa bình rồi mà sao chồng con tôi lại chết?"</em> vâng chết vào giờ thứ 23, 24 hoặc 25. Đám cán binh VC kia dù có bị nhồi sọ điên cuồng đi "giải phóng miền Nam", dù có bị mang ra phê bình kiểm thảo thanh trừng, cũng không đứa nào muốn phải chết hôm nay, chúng cũng còn muốn nhìn thấy hòa bình, ngay kể cả các cấp chỉ huy cấp thấp hay cao hơn nữa của chúng cũng còn muốn thấy như vậy. Chỉ có đám lãnh đạo chóp bu của Hà Nội và đám đầu cơ làm giàu trên thân xác người lính VNCH mới ghét hòa bình và cổ võ chiến tranh.<br /><br />Trải tấm poncho bên cạnh cái hố, nhai vội vài miếng cơm vắt với con khô sặc, từ sáng đến giờ chưa ăn gì nhưng không cảm thấy đói, tôi vẫn có thói quen ăn ít uống nhiều, càphê ngày cũng dăm bảy cữ , vừa ngả lưng gối đầu lên chiếc nón sắt thì th/s Thóc thường vụ mang đến ca càphê nóng hổi, tôi biết tỏng là lại dùng C4 để nấu, ông ngồi xuống và rót cho tôi một nửa và thắc mắc hỏi tôi.<br /><br />- Mai hòa bình thiệt rồi hả trung úy, cả ngày nay tôi chỉ sợ trung úy cho xả láng như những lần trước, tôi lo quá mà không dám hỏi.<br /><br />- Ừ thì ngày mai thi hành hiệp định Paris, ai ở đâu ở đó, chắc rồi sau đó sẽ có hòa bình, còn hòa bình kiểu nào thì tôi cũng chịu, đêm nay ông cùng th/sThanh chịu khó đi kiểm tra thường xuyên cho tôi, có thể chúng không tấn công đâu, nhưng chúng sẽ pháo. Này ông Thóc, nếu hòa bình rồi thì ông làm gì ?<br /><br />- Tôi hiện dịch không biết có cho giải ngũ không, quê tôi ở Sađéc nếu được giải ngũ tôi sẽ theo nghề ông già là làm bánh phồng tôm.<br /><br />- Ông còn có nghề chứ như tôi rời ghế nhà trường là vào lính, học hành dang dở, nửa thầy nửa thợ, mà thôi hơi sức đâu lo xa, tới đâu hay tới đó.<br /><br />Con trăng non đã lú qua đầu ngọn tre gai, nay đã khoảng mùng mười tháng chạp, chỉ còn độ hai chục ngày nữa là lại Tết, cả hai chúng tôi bắt đầu im lặng, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng tư, hình ảnh của thời còn đi học lúc ẩn lúc hiện xen lẫn với hình ảnh của những ngày giầy sô áo trận cứ lởn vởn trước mắt, cái quán cà phê chồm hổm đối diện trường Văn Học trên đường Phan Thanh Giản chúng tôi thường ngồi mỗi buổi sáng trước khi vào học, bắt chước mấy ông đạp xích lô đổ càphê ra dĩa vừa thổi vừa uống, hay những hôm trốn giờ luận lý học của LM Trần Văn Hiến Minh cả bọn kéo xuống Cà phê Thư Hương đối diện trại hòm Tobia ở Tân Định, hay những ngày đóng quân ở Mimot mỗi chiều về mấy thằng lại cùng nhau cưa một bình 5 lít với soài xanh và khô sặc dầm nước mắm ớt trước khi đi kích đêm trong khu rừng cao su âm u bạt ngàn ...<br /><br />Đang mơ màng thì lại nghe tiếng đề pa, chụp vội chiếc nón sắt lăn xuống hố, không nghe đạn rít trên đầu, vậy là không phải mình, hơn chục quả nổ trong thành phố, nhìn đồng hồ mới hơn 10 giờ, không biết đêm nay sẽ phải nhẩy xuống hố bao nhiêu lần đây (sau này tôi đuợc biết đợt pháo này đã liếm mất một cái chân của trung tá Ngô Minh Hồng liên đoàn trưởng LĐ5, và một đại tá cố vấn Mỹ hy sinh). Tôi nghiệm ra rằng tiếng đề pa từ phía bắc tức là pháo vào thành phố, còn từ phía đông tức là pháo vào chúng tôi, hồi chiều chúng đã gởi đến mấy chục trái nhưng đều vọt qua đầu, không biết có dính vào TĐ31 không ?<br /><br />May mắn thay đựơc yên đến gần sáng, khoảng gần 6 giờ sáng tiểu đoàn cho biết đúng 8 giờ chuông nhà thờ trong thành phố và trong Quản Lợi sẽ đổ một hồi dài, các đơn vị cho bắn mấy trái signal để làm hiệu bắt đầu thi hành hiệp định, tôi báo cho các trung đội rõ để thi hành, rồi gọi hạ sĩ Tào Khén nấu cho ca càphê. Thời gian chờ đợi để đón hòa bình sao trôi qua thật chậm, thỉnh thoảng lại nhìn đồng hồ, chiếc kim dài làm như không chạy nổi, sự bồn chồn nôn nóng chờ đợi khiến tôi đâm lo lắng, e có điều gì bất trắc sẽ xảy ra, linh tính có gì không ổn và điều này vẫn thường xảy ra và đúng, tôi lệnh cho đại đội báo động trong tư thế sẵn sàng tác chiến, không đầy mười phút sau những tiếng đề pa từ hướng đông vọng đến, gần hai chục quả nổ sát phòng tuyến không đầy 50 thước, mẹ cha nó chỉ còn non nửa giờ nữa mà chúng cũng còn cố vớt vát cú chót, chuẩn bị hòa bình kiểu này thì đíu khá được, chẳng biết hòa bình rồi sẽ tồn tại bao lâu.<br /><br />Đúng 8 giờ khi chuông nhà thờ đổ, các đơn vị đều cho giựt signal lên, tôi lệnh cho các trung đội vẫn phải đề cao cảnh giác, cho đặt các vọng gác cẩn thận rồi cho căng cờ lên, mười lá cờ vàng trải dọc theo bìa rừng cao su đánh dấu vị trí gần nhất đối diện với tuyến VC, gần một tiếng sau từ bên phía VC có tiếng la to.<br /><br />- Cấp chỉ huy bên đây muốn nói chuyện với cấp chỉ huy bên đó.<br /><br />Thiếu úy Nghị gọi máy hỏi tôi tính sao, tôi trả lời<br /><br />- Tao sẽ sang gặp tụi nó, mày cho em út gỡ đồ chơi dọn một lối đi và cho tụi nó sẵn sàng, có gì bất trắc tao la lên thì cứ nổ.<br /><br />Tôi cũng báo cho th/tá Hiển là tôi sẽ đi gặp tên chỉ huy đơn vị Việt cộng. Lấy chiếc beret nâu đội lên, tôi đi người không tiến ra khỏi phòng tuyến của đơn vị hơn năm mươi thước rồi dừng lại, từ phía bên kia một tên trong bộ kaki Nam Định, vai đeo cái sắc cốt, cây K54 ngang hông tiến đến, tôi đưa bàn tay cho hắn bắt và tự giới thiệu:<br /><br />- Tôi là trung úy Hiếu cấp chỉ huy Biệt Động Quân.<br /><br />Tôi không nói tôi là đại đội trưởng vì e hắn sẽ đoán được lực lượng của mình, hắn cũng tự giới thiệu<br /><br />- Tôi là Cao, chính trị viên tiểu đoàn, là đơn vị đối đầu với đơn vị của trung úy, ngày hôm qua bên ấy có ai bị gì không, nếu có tôi xin chia buồn.<br /><br />Thấy thái độ "nhân nghĩa bà tú Đễ" của hắn tôi cười thầm trong bụng<br /><br />- Cám ơn anh, rất may chỉ có vài anh em bị thương nhẹ, còn bên anh thì sao ?<br /><br />- Chúng tôi có mười sáu chiến sĩ hy sinh trong đó có thiếu úy Phú đại đội trưởng. Tôi muốn gặp trung úy để thứ nhất trung úy cho chúng tôi nhận lại số anh em chết còn ở phía bên khu vực của anh. Thứ hai là chúng ta bàn về lệnh ngừng bắn. Thấy không thể giải quyết yêu cầu đầu tiên của hắn liền ngay được, và khả năng về chính trị của mình thật sơ đẳng nên tôi trả lời:<br /><br />- Đầu tiên xin anh cứ gọi tôi là Hiếu cũng như tôi gọi anh là anh Cao, yêu cầu thứ nhất của anh tôi sẽ xin chỉ thị ở cấp trên, nếu cấp trên đồng ý tôi sẽ cho mang số anh em đó ra đây và gọi anh đến nhận, điều thứ hai là bản hiệp định đã được hai chính phủ ký chúng ta không có điều gì phải bàn, để thực thi hiệu quả và dễ nhất là nếu anh thấy chúng tôi vượt qua hàng cao su mà anh và tôi đang đứng đây thì anh cứ cho nổ súng, và chúng tôi cũng vậy mong rằng chúng ta hãy tôn trọng để tránh đổ máu vô ích. Giờ thì chúng ta hãy nói những chuyện khác.<br /><br />- Nếu anh không muốn bàn về Hiệp Định thì thôi, cứ tạm chấp nhận giải pháp của anh, thỉnh thoảng chúng ta nên gặp nhau để thiết lập quan hệ bình thường, có điều tôi thắc mắc là dường như đa số sĩ quan trong quân đội miền Nam đều là người Bắc.<br /><br />Chẳng biết hắn căn cứ vào đâu để nói như vậy, tuy nhiên tôi cũng nói thêm để hắn tin rằng điều hắn nói là đúng.<br /><br />- Có thể điều anh nói là đúng, vì ông bà cha mẹ chúng tôi đã phải di cư vào Nam vì không sống được với Cộng Sản, giờ các anh lại vào đây để quấy phá dĩ nhiên là chúng tôi cũng như con cháu chúng tôi sau này phải chống lại.<br /><br />Đang nói đến đây thì có một người đàn ông tuổi ngoài bốn mươi mặc chiếc quần đen và cái áo sơmi trắng đã ngả sang màu cháo lòng đi chân đất tiến đến, theo sau là hai tên cận vệ đeo AK47, Cao bèn chỉ tay vào người đàn ông giới thiệu.<br /><br />- Đây là đồng chí Nam Bộ Tư Long, tiểu đoàn trưởng, còn đây là trung úy Hiếu<br /><br />Tôi bắt tay hắn ta, nhận thấy hắn ta mặt rỗ và nước da vàng vọt có lẽ vì sốt rét kinh niên. Sau vài câu xã giao tôi tìm cách kiếu từ vì chẳng còn gì để nói.<br /><br />Tôi trình lên thiếu tá tiểu đoàn phó về việc họ muốn xin lại số bị chết nằm trong khu vực kiểm sóat của mình, đồng thời cũng để tránh phải lo chôn bọn họ nên được chấp thuận ngay, tôi cho lục soát và tìm thấy 9 xác cùng một số vũ khí, cho khiêng số xác này đến lằn ranh và gọi họ sang nhận còn số vũ khí thì chuyển giao lên tiểu đoàn.<br /><br />Ngày đầu tiên thi hành Hiệp Định Paris, tạm thời không còn tiếng súng, chúng tôi ai cũng thấy hân hoan tuy có pha lẫn đôi chút ngỡ ngàng, hòa bình gì mà đến thật kỳ quái, mới hôm qua đây còn tìm mọi cách để giết nhau, thậm chí sáng nay chỉ trước giờ ngưng bắn mấy chục phút mà Việt cộng còn cố pháo vớt vát cú chót, rồi đây không biết tồn tại được bao lâu, nhưng thôi được ngày nào hay ngày nấy. Tuy nhiên dù có hòa bình thì cũng vẫn phải cảnh giác, các chốt tiền đồn được tung ra, hệ thống phòng thủ được củng cố cho vững chắc, phát quang xạ trường, tăng cường hệ thống mìn claymore tự động và trái sáng.<br /><br />Chỉ sau ngày thi hành hiệp định hơn một tuần đã bắt đầu nghe tiếng súng nổ ở phía đông và phía nam, nhưng ở phía bắc của chúng tôi vẫn hoàn toàn yên tĩnh, tôi và Cao thỉnh thoảng cũng vẫn gặp nhau trao đổi chuyện trò hoàn toàn đề cập về thăm hỏi gia đình, cho đến khi trước tết vài ngày một sự việc xảy đến để rồi sau đó chúng tôi không còn gặp lại nữa.<br /><br />Câu chuyện xảy ra như sau, còn khoảng gần một tuần thì Tết Nguyên Đán, đơn vị VC cho dựng một cái cổng bằng vỉ sắt trên Quốc Lộ 13 xế bên tay trái chúng tôi, họ lấy lý do là đón tiếp phái đoàn Ủy Hội Quốc Tế. Tôi trình lên trên và nhận được chỉ thị không cho họ được dựng gần mình, tôi có gặp Cao yêu cầu dời xâu về hướng bắc 500 mét, ngày hôm sau Cao cho tôi biết là cấp trên không đồng ý, tôi hạn cho anh hai ngày nữa để anh lo liệu, nếu không tôi sẽ phải hạ nó xuống, lại một lần nữa Cao trả lời trên không thuận. Sáng sớm hôm sau tôi cho đại đội ứng chiến rồi cùng khẩu đội XM202 tiến đến gần cái cổng và phóng vào một bên trụ một trái đạn, chất lân tinh bám vào trụ sắt cháy nóng trên 3000 độ khiến trụ sắt chảy ra và đổ gục xuống cháy luôn cả lá cờ <em>"giải phóng"</em>.<br /><br />Sau Tết ít ngày bọn VC bắt đầu pháo vào thành phố, hòa bình đã dần dần bị chúng phá vỡ dưới sự bao che của đám Ba Lan, Hungary và Indonesia trong Ủy Hội Quốc Tế, mặc dù bọn chúng nằm ngay trong Bình Long đã cùng hứng chịu những đạn pháo này. Cao nhiều lần muốn gặp tôi tôi đều từ chối, lần sau cùng tôi nhờ thiếu úy Nghị nói với hắn là tôi đã chết trong lúc đi vào thành phố thì bị trúng pháo của Việt cộng. Đơn vị tôi nằm tại đây thêm hai tháng nữa, nhưng cũng vẫn không xảy ra chuyện gì.<br /><br />Dù sao thì chúng tôi cũng đã có một thời gian ngắn hòa bình, dù chỉ là hòa bình giả tạo. Vì thế sau này chúng tôi không còn tin có thể có hòa bình với Việt cộng nữa, ngày 30/4/75 giao tranh với bọn chúng tại Bà Hom dọc theo xa lộ Đại Hàn, bị chiến xa của chúng truy kích chúng tôi phải triệt thoái vào Tân Phú, ngang qua một đồn canh, anh em nghĩa quân đeo băng xanh hô lớn<em> "hòa bình rồi các anh Biệt Động Quân ơi",</em> lại hòa bình hai chữ này chẳng còn ý nghĩa gì vì tôi đã chào vĩnh biệt nó chỉ sau ngày thi hành hiệp định Paris không lâu.<br /><br />Biệt Động Quân<br /><strong>Đoàn Trọng Hiếu</strong></p><p align="justify"> </p>Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòahttp://www.blogger.com/profile/01195573653483067624noreply@blogger.com0