Friday, January 29, 2010

Hiệp định Paris, khúc quanh cuối cùng trong cuộc chiến Việt Nam - Hà Tường Cát

Hà Tường Cát

Trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa, Ngoại Trưởng Trần Văn Lắm ký vào hiệp định tại Hội Nghị Hòa Bình Quốc Tế về vấn đề Việt Nam ngày 2 Tháng Ba, 1973 tại Paris.

Ngày này 37 năm trước - 27 tháng 1 năm 1973 - Hiệp định ngừng chiến tại Việt Nam được ký kết ở Paris. Mặc dầu mang danh nghĩa “thỏa hiệp chấm dứt chiến tranh - lập lại hòa bình” nhưng từ căn bản không bên nào tin tưởng vào giá trị của những điều ghi trong văn bản và diễn biến tiếp theo là hòa bình không bao giờ có thật.

Sau này Bắc Việt công khai khoe khoang rằng Hiệp Ðịnh Paris chỉ là một bước được tính toán trong toàn bộ chiến lược “giải phóng” miền Nam Việt Nam năm 1975. Tuy nhiên thực tế không đơn giản như vậy, vì lịch sử luôn luôn là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều yếu tố kể cả bất ngờ, khiến cho kết quả cuối cùng không phải dễ dàng định sẵn và các ý kiến nhận định cho đến nay vẫn rất khác biệt.

Cuộc đàm phán ở Paris kéo dài hơn nhiều cuộc thương thuyết hòa bình khác chính vì nội dung và ảnh hưởng chính trị là then chốt hơn quân sự. Tổng cộng qua hơn 4 năm đàm phán có 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp kín, 500 buổi họp báo và hàng ngàn cuộc phỏng vấn riêng.

Xét cho cùng hòa đàm Paris chỉ là một hình thức giải quyết tạm bợ mà các bên cần phải có chứ không bên nào đạt được phần thắng. Chiến lược vừa đánh vừa đàm không xa lạ qua nhiều cuộc chiến tranh và “điều gì không đoạt được trên chiến trường thì không thể đạt tới ở bàn hội nghị” là một nguyên tắc bất biến. Tại Việt Nam không phía nào có ưu thế chiến ở chiến trường mà chỉ có nhiều chỗ yếu do những hoàn cảnh riêng của mình trong đó đáng kể tới sự thúc bách bởi thời gian.

Hòa đàm tại Paris khởi sự tháng 5 năm 1968 với sự tham dự của Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Việt Nam Cộng Hòa, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Vấn đề sơ khởi phải tranh luận suốt mấy tháng đầu là hình dạng cái bàn hội nghị để thể hiện tính cách tham dự của bốn bên nhưng lại chỉ như hai bên. Kết quả đi tới sự chấp thuận bàn hội nghị là một bàn tròn ở giữa nối liền hai bàn dài hai bên. Trong ba năm tiếp theo các bên dùng hội nghị như diễn đàn đấu tranh chính trị. Các phiên họp chính thức sau khi mở màn chỉ còn là tố cáo nhau, tranh luận bằng cách trình bày ý kiến của mình không cần biết đối phương nói gì, lặp đi lặp lại những đòi hỏi không thể giải quyết được, rồi kết thúc mà không đi tới đâu.

Thương lượng thật sự chỉ có qua nhiều lần gặp gỡ bí mật giữa Henry Kissinger với Lê Ðức Thọ và những cuộc mật đàm sau này mới được tiết lộ. Hòa đàm 4 bên như vậy thực chất chỉ có 2 bên. Mặt Trận Giải Phóng là công cụ do Bắc Việt trực tiếp điều khiển nên không có vấn đề gì. Còn Việt Nam Cộng Hòa rõ ràng nhiều lúc chỉ đứng ngoài, nhưng phản ứng mạnh mẽ đối với đồng minh Hoa Kỳ ở giai đoạn cuối cùng lại có tác dụng tích cực, xác định được vị thế và vai trò không thể phủ nhận của mình.

Qua ba năm, giữa quá trình đàm phán, tháng 3 năm 1972, Bắc Việt bất ngờ huy động lực lượng 120,000 bộ đội chính quy cùng nhiều đơn vị địa phương, du kích, và đưa ra chiến trường những vũ khí nặng từ trọng pháo đến xe tăng, hỏa tiễn, mở cuộc tấn công Lễ Phục Sinh (Eastern offensive) hay trận chiến Mùa Hè Ðỏ Lửa. Sau thắng lợi ban đầu, cuối cùng cả ba mũi tấn công chính - Quảng Trị, Kontum, An Lộc - đều bị bẻ gãy. Thất bại hoàn toàn của chiến dịch quy mô này khiến Bắc Việt tiêu tan ảo vọng tạo một chiến thắng quân sự quan trọng hỗ trợ cho cuộc thương lượng, cũng như để chính quyền Nixon nản lòng trong ý chí tích cực ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa. Ngược lại, Hoa Kỳ gia tăng mức can thiệp quân sự qua việc mở rộng những cuộc oanh tạc Bắc Việt, thả mìn phong tỏa bờ biển, và trên chiến trường miền Nam yểm trợ mạnh mẽ bằng phi pháo và hải pháo.

Trận chiến năm 1972 thể hiện được uy tín của quân lực cùng khả năng tồn tại của chính thể Việt Nam Cộng Hòa, nhưng mặt khác cũng cho thấy nhược điểm của quân đội Việt Nam Cộng Hòa là chỉ chiến đấu có hiệu quả nếu đầy đủ hỏa lực hùng hậu. Quân đội Cộng Sản Bắc Việt hiểu điều đó nên khi biết chắc là Việt Nam Cộng Hòa không còn sức mạnh đó, họ đã vững tin vào sự thành công khi mở cuộc tổng tấn công năm 1975 bằng lực lượng áp đảo hơn.

Trong tình hình quân sự không như mong muốn và trước sự phát triển bất ngờ các mối quan hệ ngoại giao mới giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc và Nga, Bắc Việt thấy cần một sự khai thông tại hòa đàm Paris để tính giải pháp khác cho ý đồ tương lai. Họ chấp nhận một nhượng bộ căn bản là không đòi hỏi sự từ chức của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trước khi chấm dứt chiến tranh, lập trường mà Cộng Sản Bắc Việt đã khăng khăng duy trì suốt mấy năm từ khi đi vào đàm phán. Ngược lại phía Hoa Kỳ không tuyệt đối đòi hỏi việc triệt thoái khoảng 160,000 bộ đội Bắc Việt đang ở trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

Do đó vào tháng 10 năm 1972 cuộc mật đàm giữa Henry Kissinger và Lê Ðức Thọ đã đi tới kết quả là một dự thảo sơ bộ về cuộc ngừng bắn tại chỗ, còn được gọi là ngung chiến “da beo”, nghĩa là quân đội bên nào giữ nguyên vị trí hiện hữu cho tới khi đi vào tiến trình giải quyết sau này.

Hoa Kỳ và Bắc Việt đều hy vọng hiệp định sẽ được ký kết ngay sau đó. Nhưng bản thỏa hiệp dự thảo đã gặp sự chống đối mạnh mẽ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vì nhiều điểm Việt Nam Cộng Hòa không được tham khảo ý kiến trước. Qua các cuộc thảo luận căng thẳng tại Sài Gòn trực tiếp với Tổng Thống Thiệu và Bí Thư Hoàng Ðức Nhã, Kissinger phải đồng ý chuyển cho Bắc Việt một bản đề nghị 96 điểm yêu cầu sửa đổi. Bắc Việt giải thích yêu cầu này là “hành động bội tín”, không chấp thuận cứu xét và các cuộc thương lượng giậm chân tại chỗ cho đến tháng 12 thì hoàn toàn bế tắc, Kissinger và Lê Ðức Thọ ngưng các cuộc gặp gỡ.

Ngày 14 tháng 12 năm 1972, Tổng Thống Nixon gởi một tối hậu thư cho Cộng Sản Bắc Việt yêu cầu tái tục đàm phán nghiêm chỉnh trong vòng 72 giờ, nếu không sẽ phải nhận lãnh hậu quả nặng nề. Bắc Việt không có đáp ứng gì cụ thể và ngày 18 tháng 12 không lực Hoa Kỳ được lệnh mở chiến dịch Linebacker Two. Ðây là đợt oanh kích không quân dữ dội nhất thời kỳ chiến tranh Việt Nam, trong vòng 12 ngày khoảng 3,000 phi xuất máy bay chiến đấu và B-52 trút xuống 40,000 tấn bom, lần đầu tiên thả bom trải thảm ngay thành phố Hà Nội và Hải Phòng.

Bốn ngày trước khi chấm dứt chiến dịch Linebacker Two, Bắc Việt thông báo với Hoa Kỳ là sẽ hòa đàm trở lại ngay khi ngừng oanh tạc. Ngày 8 tháng 1 năm 1973, Kissinger gặp Lê Ðức Thọ tiếp tục đàm phán, một số điều khoản được sửa đổi tuy nhiên căn bản vẫn là như cũ và những ngôn từ mới được thay thế trong hiệp định thường có tính cách mơ hồ mà mỗi bên đều tìm cách diễn giải theo quan điểm của mình. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa dù không đồng ý hoàn toàn, vẫn lâm vào tình thế không thể khước từ thêm nữa và Hiệp Ðịnh Chấm Dứt Chiến Tranh Lập Lại Hòa Bình được ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 giữa 4 bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Việt Nam Cộng Hòa và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.

Nhiều năm sau này Bắc Việt vẫn giải thích rằng việc trở lại đàm phán là do Hoa Kỳ bị đánh bại trong cuộc oanh tạc mùa Giáng Sinh năm 1972. Như thông lệ, Hà Nội phóng đại tổn thất của không lực Hoa Kỳ, loan báo bắn hạ tới 30 chiếc B-52. Ngược lại, Kissinger cũng không xác nhận dư luận tin rằng Bắc Việt phải chịu lép vì cuộc oanh tạc nặng nề. Trong một buổi họp báo sau khi ký hiệp định, được một phóng viên hỏi lại chuyện này, Kissinger chỉ đáp lơ lửng theo kiểu ngoại giao: “Ðã có thỏa thuận hồi tháng 10 nhưng cần một số sửa đổi, sau đó có cuộc oanh tạc và thảo luận lại, bây giờ hiệp định đã được ký kết”.

Bản hiệp định gồm 9 chương 23 điều được tất cả các bên giải thích theo quan điểm và đều coi như là thắng lợi.

Hoa Kỳ đã quyết định bằng mọi cách chấm dứt sự can dự ở Việt Nam nên Hiệp Ðịnh Paris chỉ là một hình thức rút lui trong danh dự, nhận về các tù binh chiến tranh, và trên danh nghĩa đã tạo lập được hòa bình, bảo vệ sự tồn tại chính nghĩa của đồng minh Việt Nam Cộng Hòa. Còn thất bại trong việc bảo đảm tương lai cho miền Nam Việt Nam không nằm trong chủ trương tối hậu của Hoa Kỳ.

Trong ý đồ lâu dài của Bắc Việt quyết tâm chiếm toàn thể miền Nam, hòa bình không là mục tiêu và Hiệp Ðịnh Paris chỉ là một bước ngưng nghỉ để chuẩn bị lực lượng. Phan Văn Sung, một thành viên trong phái đoàn Bắc Việt tại hòa đàm Paris, 32 năm sau (2005) trả lời phỏng vấn của báo Quân Ðội Nhân Dân, còn nói rằng thắng lợi về phía Bắc Việt vì buộc Hoa Kỳ phải rút quân không điều kiện. Ðiểm quan trọng nhất theo lời ông là Ðiều 1, Chương 1 của hiệp định: “Hoa Kỳ phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã được công nhận bởi Hiệp Ðịnh Geneva về Việt Nam”. Hiệp Ðịnh Geneva năm 1954 nói rằng vĩ tuyến 17 chỉ là ranh giới đình chiến và hai miền Nam Bắc sẽ thống nhất qua tổng tuyển cử, như vậy, sự hiện diện của bộ đội Bắc Việt tại miền Nam không mang tính cách là quân đội ngoại quốc xâm lăng. Thoái bộ của Bắc Việt là phải công nhận chế độ Việt Nam Cộng Hòa, nhưng có điều kiện về sự hình thành Hội đồng Hòa giải Hòa hợp Dân tộc để đi tới thống nhất. Tuy nhiên Bắc Việt chỉ xem đòi hỏi ấy như một lý thuyết suông chứ chẳng tin vào kết quả khi họ vẫn chủ trương sẽ đánh chiếm miền Nam bằng vũ lực.

Ðiểm yếu nhất đối với Việt Nam Cộng Hòa là Hiệp Ðịnh Paris không quy định cụ thể sự triệt thoái quân đội Bắc Việt khỏi lãnh thổ miền Nam. Chính quyền của Tổng Thống Thiệu luôn luôn coi hai miền Nam Bắc là hai quốc gia độc lập, đòi hỏi sự tôn trọng ranh giới phi quân sự ở vĩ tuyến 17 và như thế bộ đội Bắc Việt là lực lượng ngoại nhập phải rút đi. Tuy vậy nếu như điều khoản này có được xác định bằng văn bản thì trong thực tế cũng chẳng có hiệu quả bao nhiêu với phương cách lừa đảo thông thường của phía Cộng Sản. Thắng lợi duy nhất đối với Việt Nam Cộng Hòa là sự công nhận giá trị hợp pháp trên thực tế của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông Thiệu trước đó đã khẳng định lập trường 4 Không: “Không chấp nhận, không thương lượng, không liên hiệp và không nhượng đất cho Cộng Sản”. Trong những điều kiện ấy, Hiệp Ðịnh Paris nhìn nhận nhưng không bảo đảm gì cho sự tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa và hậu quả sẽ là phải có những nỗ lực hết sức khó khăn vì chiến tranh không thể dứt và cuộc chiến đấu không còn được đồng minh hỗ trợ.

Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam chỉ là bộ phận của Cộng Sản Bắc Việt, Hiệp Ðịnh Paris công nhận giá trị cho họ là một thực thể, ngoài ra họ chẳng có gì khác để được hay để mất.

Hiệp Ðịnh Paris xác định lệnh ngừng bắn có hiệu lực từ 8 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, giờ Sài Gòn. Chỉ trong ít ngày tiếp sau, niềm hy vọng của dân chúng về hòa bình đã mau chóng trở thành ảo tưởng. Cả hai phía Cộng Sản và Quốc Gia đều đã chuẩn bị tiến hành và phòng chống cuộc chiến giành dân lấn đất. Cuộc xung đột vào phút chót không ngừng vào giờ ngưng bắn như hiệp định đòi hỏi mà kéo dài cho đến đầu tháng 2. Theo Ðại Tá William E. Le Gro trong cuốn “Việt Nam từ ngưng bắn đến đầu hàng” xuất bản năm 1981 thì vào thời điểm ấy quân lực Việt Nam Cộng Hòa, chính quy cũng như địa phương quân và dân vệ, mạnh hơn nhiều so với phía Cộng Sản. Không lượng định đúng khả năng của đối phương, quân đội và du kích Cộng Sản chỉ chiếm được 23 ấp trong cuộc tấn công vào 400 ấp và chịu tổn thất nhân mạng tới 5,000. Ngược lại thì Việt Nam Cộng Hòa cũng thất bại ở một vài nơi mà tiêu biểu là cuộc đột kích của Thủy quân Lục chiến vào Cửa Việt gần vùng phi quân sự.

Chiến tranh tiếp diễn và leo thang trong những tháng năm sau đó và người dân Việt thật sự chưa bao giờ được sống hòa bình cho đến ngày miền Nam sụp đổ. Người dân miền Bắc có may mắn hơn vì thoát khỏi tai họa trực tiếp của chiến tranh nhưng vẫn còn phải gánh chịu gian khổ của một hậu phương bị ép buộc dành nhiều nỗ lực hỗ trợ cho tiền tuyến.

Cuộc thương lượng gọi là hòa đàm tại Paris về thực chất không đem đến điều gì tốt đẹp như mong mỏi cho cuộc nội chiến khốc liệt 15 năm, mà chỉ là một khúc quanh chính trị và cuối cùng đưa tới kết thúc đầy thất vọng cho dân chúng cả hai miền Nam Bắc.

ooOoo
    Ai cũng ký, nhưng chẳng ai tin sẽ thi hành
Cựu Đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ, ông Bùi Diễm

Ba mươi bảy năm trước, vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, hiệp định ngừng chiến tại Việt Nam được ký kết tại Paris. Một trong những người tham dự ngay từ đầu lúc khởi sự các cuộc đàm phán năm 1968 là ông Bùi Diễm, lúc bấy giờ là đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ và là cố vấn Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu về hồ sơ hòa đàm Paris. Nhân kỷ niệm biến cố lịch sử này, ông Bùi Diễm, hiện sống tại Maryland, dành cho Người Việt cuộc phỏng vấn sau đây.

- ÐQAThái: Thưa ông, Hiệp Ðịnh Paris 1973 mang danh nghĩa “thỏa hiệp chấm dứt chiến tranh - lập lại hòa bình” nhưng nhiều người cho rằng, ngay từ căn bản, không bên nào tin tưởng vào giá trị của những điều ghi trong Hiệp định. Xin nghe ý kiến của ông?

- Ông Bùi Diễm: Phải nói rằng, riêng về phía Việt Nam Cộng Hòa thì biết rõ rằng là khó lòng Cộng Sản chịu thi hành đứng đắn Hiệp Ðịnh Paris. Còn chính phủ Hoa Kỳ ngay sau khi ký bản hiệp định, họ lập tức trở về với những vấn đề nội bộ của họ và nếu họ có nói gì thì cũng chỉ là những lời hứa hẹn bề ngoài mà thôi. Vì lúc bấy giờ Tổng Thống Nixon bị nhiều khó khăn vì vụ Watergate, thành thử ngay cho dù chính quyền Nixon có muốn thi hành những lời đã hứa với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì cũng không làm được nữa.

Tóm lại, không riêng gì chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, không riêng gì chính phủ Mỹ, mà tất cả những nước khác ký vào bản hiệp định, không ai nghĩ rằng bản văn này được thi hành đứng đắn. Không ai tin tưởng như vậy.

- ÐQAThái: Thưa ông, phải chăng ý đồ của Washington là muốn rút chân khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam và phó mặc số phận của Việt Nam Cộng Hòa?

- Ông Bùi Diễm: Ðiều đó thì chúng ta đã thấy rõ từ trước rồi. Trong các bản phúc trình gửi Tổng Thống Thiệu, tôi trình bày nhiều lần rằng đã đến lúc quyền lợi của người Hoa Kỳ không còn giống như quyền lợi của Việt Nam Cộng Hòa nữa, và khi những quyền lợi của họ không còn đi đôi với quyền lợi của dân tộc Việt Nam thì chúng ta phải thận trọng trong việc cư xử với người Mỹ.

- ÐQAThái: Trước khi ngồi vào bàn hội nghị, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lúc nào cũng cương quyết giữ lập trường “Bốn không,” trong đó có điểm là không bao giờ chấp nhận nói chuyện với cái gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.” Nhưng năm 1968, bốn thành phần của hội nghị Paris gồm có Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Cộng Sản Bắc Việt), và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Phải chăng lúc đó ông Thiệu có một bước lùi bất lợi cho miền Nam?

- Ông Bùi Diễm: Trước khi cử phái đoàn đi Paris dự hội đàm, đã có những sự điều đình gay gắt xảy ra giữa chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và chính phủ Hoa Kỳ; và giữa Tổng Thống Thiệu và ông đại sứ Mỹ là Bunker.

Tổng thống ông Thiệu chỉ thị cho tôi phải tới Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Tòa Bạch Ốc để đặt vấn đề một cách rõ rệt về “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.”

Tôi còn nhớ, khi ông Nixon đắc cử tổng thống, vào một buổi sáng Mùa Ðông giá lạnh ở thủ đô Hoa-Thịnh-Ðốn, một ông cụ già bấm chuông gõ cửa đi vào cửa tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa, tôi đi xuống thì hóa ra là ông Dirksen, lãnh tụ đảng Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Ông đến gặp tôi và nói với tôi rằng, ông nhân danh hai vị tổng thống, Tổng Thống Johnson và Tổng thống mới đắc cử Nixon nói với ông Dicksen rằng chính phủ Hoa Kỳ không chấp nhận Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tuy nhiên đứng trên phương diện mở cuộc hòa đàm thì Hoa Kỳ đưa ra mô thức phe của hai phe, tức là phe của Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ, và phe của Bắc Việt và Việt Cộng - tức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Tôi nghĩ, có lẽ vì có sự cam đoan đó mà Tổng Thống Thiệu chấp nhận mô thức hai đó và sau đó mới có sự có mặt của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và chính phủ Lâm thời do những bà như Nguyễn Thị Ðịnh và những phần tử thân Cộng tham dự hội đàm Paris.

- ÐQAThái: Thưa ông, nhiều cuốn sách do tác giả Mỹ viết cho rằng, ông ít nhiều có dính vào “âm mưu” giúp cho ông Nixon thắng cử; xin được nghe ý kiến của ông về vấn đề này?

- Ông Bùi Diễm: Cuối năm 1968 là thời điểm lúc sắp sửa đi vào cuộc điều đình Paris, và cũng là lúc cuộc tranh cử giữa ông Nixon và ông Humphrey đi vào giai đoạn quyết liệt. Và chiến tranh Việt Nam là đề tài lớn trong cuộc tranh cử tổng thống cuối năm 1968.

Khi đó, với tư cách là đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa, tôi tiếp xúc với cả hai ông Humphrey lẫn ông Nixon. Việc tôi tiếp xúc với ông Nixon, tôi đều nói cho chính quyền Hoa Kỳ biết chứ không phải tôi giấu diếm, nhưng về sau có hàng chục cuốn sách viết về vấn đề này và cho là những cơ quan an ninh của Hoa Kỳ đã chụp lấy những mật điện của tôi gửi về cho ông Tổng Thống Thiệu; và CIA cũng như FBI đã được lệnh nghe lén những điện thoại của tòa đại sứ và của cá nhân tôi để xem tôi có làm việc gì giúp cho ông Nixon hay không.

Người ta nói đến hai bản điện văn: một bản điện văn ngày 23 tháng 10 năm 1968 tôi gởi về cho ông Thiệu và viết bằng tiếng Anh để tránh những lầm lỗi về dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng khi viết bằng tiếng Việt. Trong điện văn, tôi nói rằng những người bạn Hoa Kỳ ở thủ đô người ta ngại rằng tổng thống sẽ có một thái độ mềm dẻo hơn trước trong vấn đề đối xử với miền Bắc.

Ðấy là câu nguyên văn tôi viết gửi về cho ông Thiệu. Sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ chừng 4 ngày, tôi lại có một mật điện khác nói với ông Tổng Thống Thiệu rằng tôi vẫn thường xuyên liên lạc với bộ tham mưu của ông Nixon. Về sau tôi được biết cơ quan của Hội đồng An ninh Quốc gia của Mỹ đã lấy những mật điện đó ra và đưa cho ông Tổng Thống Johnson và chính quyền Johnson cho rằng tôi đã can thiệp vào nội bộ của chính phủ Hoa Kỳ và làm lợi cho ông Nixon. Việc đó là một việc lớn trong chính phủ Johnson và bộ trưởng quốc phòng lúc bấy giờ là ông Clark có đưa vấn đề ra với ông Johnson, nhưng về sau họ đi đến kết luận rằng không lẽ đưa ra một việc chứng tỏ rằng chính phủ Hoa Kỳ nghe lén điện thoại của một đại sứ thì việc đấy không lấy gì làm đẹp đẽ cho lắm, cho nên họ yểm. Chính vì thế mà có lời đồn đại như ông vừa đề cập.

- ÐQAThái: Một số người ngoại giao và lãnh đạo các nước đưa ra một lời ta thán chua chát nói rằng “làm kẻ thù của Mỹ thì được Mỹ đối xử một cách kính trọng, làm đồng minh của Mỹ thì có ngày chết”; qua kinh nghiệm của Việt Nam Cộng Hòa, ông rút ra được bài học gì?

- Ông Bùi Diễm: Tôi nghĩ rằng bài học của chúng ta qua cuộc chiến tranh Việt Nam là chúng ta phải một hiểu rõ chính trị của Hoa Kỳ như thế nào, tính cách phức tạp của chính trị Hoa Kỳ ra làm sao để mà mình hiểu biết rõ khi nào họ có cùng quyền lợi để có thể đi với mình. Và cũng có lúc mình thấy rõ quyền lợi của họ không đi đôi với quyền lợi của mình nữa thì điều đó phải nhận thức cho rõ rệt. Và một kinh nghiệm thứ hai nữa là không bao giờ mình để quyền lợi tối thượng của mình bị ràng buộc vào những nước bên ngoài, đó là điều tối kỵ. Tất cả lịch sử của chiến tranh Việt Nam đã chứng minh điều đó.

- ÐQAThái: Cám ơn ông đã trả lời phỏng vấn của Người Việt.



No comments: