Monday, April 27, 2009

Nhẩy dù: Vị Anh Hùng Kiệt Liệt - Phạm Huy Sảnh

“Tôi muốn nói với các anh, người Cộng Sản, có bắn tôi hôm nay cũng không dập tắt được ngọn lửa đấu tranh của người dân trong nước, mai này sẽ có hàng trăm, hàng ngàn Nguyễn Văn Viên khác nối gót".

Nói xong Ðại Úy Nguyễn Văn Viên quay về phía đồng bào đang dự kiến, ông nói thật lớn:

“Tôi xin chúc đồng bào ở lại mạnh giỏi.”


Xin giới thiệu loạt bài đặc biệt của Mũ Ðỏ Phạm huy Sảnh viết nhân dịp tháng 4-09. Bài đầu tiên viết về đại úy Nguyễn văn Viên và tiểu đoàn 5 nhẩy dù.

Vị Anh Hùng Kiệt Liệt

“Như nước Ðại Việt ta từ trước, dẫu mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có ” Nguyễn Trãi - Bình Ngô Ðại Cáo

Lời người viết: Công lao những người cầm súng bảo vệ VNCH trong suốt 25 năm là điều rất đáng tri ân, khâm phục.

Nhưng đáng tôn vinh hơn, khi sau 30-4-1975, lúc giặc Cộng đã tràn ngập miền Nam, tướng Dương Văn Minh đã đầu hàng, Việt Nam Cộng Hoà không còn nữa, tổ chức Quân Lực VNCH ngưng hoạt động, thì tại nhiều nơi trong nước, vẫn có những tổ chức võ trang nổi lên chống lại CS BắÔc Việt. Họ gồm đủ mọi thành phần: nam, nữ quân nhân, sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ, các tổ chức tôn giáo chính trị, các thường dân buôn bán, các sinh viên học sinh, các giáo sư, nhà văn, nhà báo thậm chí đến cả các thương phế binh những người còn đủ khả năng chiến đấu. Những người con yêu tuấn liệt đó của miền Nam Việt Nam, bằng trái tim yêu nước rực lửa và tinh thần bất khuất sắt đá “thà chết chứ không khuất phục Cộng Sản.

Ôi! Vinh hiển thay! Họ đã đi vào cõi chết để tìm sự sống cho nhiều chục triệu sinh linh và chính nhờ những hy sinh cao đẹp đó, đã tiếp lửa cho ngọn đuốc chính nghĩa tự do được trường tồn.

Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc một trong những tấm gương sáng chói,
vị anh hùng kiệt liệt: Ðại Úy Nguyễn Văn Viên.

Cựu Mũ Ðỏ Phạm Huy Sảnh 3/2009



Tôi biết Ðại Úy Nguyễn Văn Viên từ năm 1955 khi ông làm Tiểu Ðoàn Trường (TÐT) Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù (TÐ5ND), ông thường sang thăm Ðại Úy Phan Trọng Chinh Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ3ND và Trung Úy Ðỗ Kế Giai, Tiểu Ðoàn Phó. Lúc đó tôi là Thiếu Úy, Trung Ðội Trưởng của TÐ3ND. Ông Viên người nhỏ con, gầy, sinh trưởng ở miền Nam, ăn nói nhẹ nhàng như con gái, nhìn sắc diện ông không có vẻ “lính nhảy dù”. Nhưng mẫu người đó đã để lại trong ký ức tôi hình ảnh một cấp chỉ huy thật gan dạ. Ði hành quân dù trong thành phố hay dã ngoại, trong lúc đạn dịch bắn như mưa rào, ông lúc nào cũng đội mũ đỏ đứng chỉ huy. Khi nhắc đến Ðại Úy Nguyễn Văn Viên không thể không nói tới đơn vị mà từ đó, ông trưởng thành trong đời binh nghiệp: TÐ5ND.

Trong quân sử Việt Nam Cộng Hoà có lẽ TÐ5ND là lò luyện thép đã sản xuất các cán bộ chỉ huy xuất sắc, và là đơn vị cấp Tiểu Ðoàn tham dự nhiều trận đánh nhất trong quân lực. Về cấp Tướng Lãnh, TÐ5ND đã đào luyện được 7 vị: Nguyễn Chánh Thi, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Hồ Trung Hậu, Lê Quang Lưỡng, Vũ Văn Giai. Nếu so sánh về thâm niên quân vụ của các Tiểu Ðoàn Nhảy Dù thì TÐ5ND đứng vào hàng thứ ba. Thành lập ngày 1 tháng 9/1953 tại Hà Nội. Tiểu Ðoàn thâm niên thứ hai là TÐ3ND thành lập ngày 1 tháng 9/1952 cũng tại Hà Nội. Tiểu Ðoàn thâm niên hơn cả là TÐ1ND được thành lập từ 15 tháng 7 năm 1951 tại Sài Gòn. Vào cuối năm 1953, thêm TÐ7ND cũng được thành lập tại Hà Nội ngày 1-11-1953, nhưng sau đó lại giải tán vào khoảng tháng 12 năm 1954 tại Ðồng Ðế, Nha Trang để lấy quân số bổ sung cho TÐ5ND được tái thành lập sau khi đã thiệt hại 100% tại trận Ðiện Biên Phủ. Tiểu Ðoàn son trẻ nhất là TÐ6ND (hậu thân của Tiểu Ðoàn 19 Bộ Binh của Thiếu Tá Ðỗ Cao Trí) thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1954.
Nếu làm thống kê về các Tướng Lãnh xuất thân từ các Tiểu Ðoàn Nhảy Dù nguyên thủy, chúng ta có thể liệt kê thêm quí vị xuất thân từ TÐ3ND có 4 vị, Phan Trọng Chinh, Ðỗ Kế Giai, Trương Quang Ân và Trần Quốc Lịch- xuất thân từ TÐ6ND có 2 vị, Lê Nguyên Vĩ và Chuẩn Tướng Nguyễn Trọng Bảo (truy thăng), TÐ1ND là đơn vị đào tạo ra 4 vị: Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Vỹ, Ðỗ Cao Trí và Dư Quốc Ðống. Về hàng Tiểu Ðoàn Trưởng xuất sắc TÐ5ND đã cung ứng cho quân đội VNCH như: Nguyễn Văn Viên, Ngô Xuân Soạn, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Hồ Trung Hậu, Hồ Tiêu, Lê Quang Lưỡng. Riêng Ngô Lê Tĩnh từng làm Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ2ND và TÐ11ND. Hai Tiểu Ðoàn này đều thành lập sau.

Nói tóm lại TÐ5ND đã lừng lững đứng hàng đầu trong Thiên Anh Hùng Sử của Quân Lực VNCH.

CÁC SĨ QUAN CỦA TIỂU ÐOÀN 5 NHẢY DÙ TRONG NHỮNG NGÀY ÐẦU TIÊN KHI PHÁP TRAO LẠI CHO VIỆT NAM CHỈ HUY

(Hình tư liệu của TÐ5ND chụp tháng 9 năm 1954)

Hàng đứng từ trái qua: Nguyễn Ðức Huy (K10 Ðà Lạt), Vũ Văn Giai (K10 Ðà Lạt), Nguyễn Mộng Hùng (K4 Thủ Ðức), Nguyễn Minh Tiến (K4 Thủ Ðức)

Hàng giữa: Lê Quang Lưỡng (K4 Thủ Ðức), Võ Mạnh Ðông (K4 Thủ Ðức), Ðào Văn Lượng (K4 Thủ Ðức), Nguyễn Trường Tự (K10 Ðà Lạt), Ngô Quang Trưởng (K4 Thủ Ðức), Phạm Hi Mai (K4 Thủ Ðức),Vũ Văn Ngói (K4 Thủ Ðức).

Hàng ngồi dưới cùng: Phạm Ngọc Linh (K4 Thủ Ðức), Nhâm Ngọc Hựu (K4 Thủ Ðức), Trung Úy Nguyễn Văn Viên Tiểu Ðoàn Trưởng (K6 Ðà Lạt), Trần Huy Chương (K4 Thủ Ðức), Nguyễn Văn Tư (K4 Thủ Ðức), 16 sĩ quan trong tấm hình lịch sữ 55 năm sau; 14 vị đã trở thành người thiên cổ, 2 vị còn lại là Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai (Santa Ana) và Trung Tá Nguyễn Mộng Hùng (San Jose)

Ghi chú:

Hình còn thiếu các sĩ quan: Võ Trọng Hầu (K4 Thủ Ðức) và các sĩ quan của K4 Phụ Cương Quyết tốt nghiệp Võ bị Ðà Lạt đáo nhậm TÐ5ND vào đầu tháng 12/1954 gồm có: Nguyễn Nghiêm Tôn, Trần Văn Huyên, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Nghĩa, Nguyễn Duy Khoa, Ngô Lê Tĩnh, Lê Ngọc Tô, Nguyễn Văn Vỹ, Nguyễn Văn Thụ, Trần Văn Nguyên và Trần Hữu Bào.



Nguyễn Văn Viên

1951, một thanh niên miền Nam, sau khi tốt nghiệp trung học rồi theo tiếng gọi của núi sông, ông tình nguyện vào quân ngũ (Khoá 6 Võ Bị Ðà Lạt) để chống lại bọn Cộng phỉ đang dày xéo quê hương. Nhưng đường hoạn lộ của người thanh niên yêu nước đã gặp đầy gian truân, chướng ngại. Cùng đơn vị đầu đời là TÐ5ND, ông 2 lần nhảy dù xuống mặt trận Ðiện Biên Phủ. Lần thứ nhất ngày 23 tháng 11 năm 1953 để giúp vị Tư Lệnh Mặt Trận Ðại Tá De Castrie thiết lập các cứ điểm quân sự trọng yếu. Lần thứ 2 ngày 14 tháng 3 năm1954, TÐ5ND lại được thả xuống để tiếp cứu Ðiện Biên Phủ. Ngay khi các cánh dù còn lơ lửng trên cao, hoả lực của quân CS bố trí từ những cao điểm xung quanh căn cứ thi nhau tác xạ. Khi quân bạn vừa đặt chân xuống đất thì ta và địch hỗn chiến khốc liệt. Trung Úy Nguyễn Văn Viên sĩ quan phụ tá đứng hàng thứ 3 trong Tiểu Ðoàn) của TÐ5ND bị thương nặng nên được không vận di tản về bệnh viện Ðôn Thủy Hà Nội cấp cứu. Toàn bộ TÐ5ND (trong số đó có Trung Úy Ðại Ðội Trưởng Phạm Văn Phú; sau này lên Tướng) được coi là những đơn vị sau cùng đã chiến đấu dũng cảm cho đến khi chiến trường Ðiện Biên Phủ hoàn toàn im tiếng súng.

Tháng 3 năm 1955, từ Ðồng Ðế Nha Trang, 2 Tiểu Ðoàn Nhảy Dù được điều động về Sài Gòn tham dự cuộc hành quân dẹp loạn Bình Xuyên.

1. TÐ3ND do Ðại Úy Nhiệm Chức Phan Trọng Chinh mới nhận Tiểu Ðoàn do Pháp trao lại. Từ chức vụ Ðại Ðội Trưởng ông trở thành vị Tiểu Ðoàn Trưởng Việt Nam đầu tiên.

2. TÐ5ND cũng do Pháp chuyển giao lại do Trung Úy Nguyễn Văn Viên, sĩ quan phụ tá của Tiểu Ðoàn được đôn lên làm Tiểu Ðoàn Trưởng cũng là người Việt Nam đầu tiên.
Khi các lực lượng của chính phủ hồi đó đã đánh đuổi quân phiến loạn Bình Xuyên khỏi Sài Gòn-Chợ Lớn, các sĩ quan sau đây đã được thăng cấp: Thiếu Tá Ðỗ Cao Trí lên Trung Tá, các Ðại Úy Nguyễn Chánh Thi và Vũ Quang Tài lên Thiếu Tá. Có điều đặc biệt là Trung Úy Nguyễn Văn Viên, Trung Úy Ðỗ Kế Giai lên Ðại Úy thực thụ và Ðại Úy nhiệm chức Phan Trọng Chinh cũng được điều chỉnh đều là Ðại Úy thực thụ cùng ngày. Sau đó Ðại Úy Viên trao TÐ5ND cho Thiếu Tá Nguyễn Chánh Thi. Ðại Úy Nguyễn Văn Viên về chỉ huy TÐ6ND thay Thiếu Tá Ðỗ Cao Trí. Ông Trí mới được thăng cấp Trung Tá và trở thành Chỉ HuyTrưởng Liên Ðoàn Nhảy Dù Việt Nam gồm: TÐ1ND Tiểu Ðoàn Trưởng, Thiếu Tá Vũ Quang Tài (mới thăng cấp) TÐ3ND Tiểu Ðoàn Trưởng, Ðại Úy Phan Trọng Chinh, TÐ5ND Tiểu Ðoàn Trưởng Thiếu Tá Nguyễn Chánh Thi (mới thăng cấp) TÐ6ND Tiểu Ðoàn Trưởng Ðại Úy Nguyễn Văn Viên (mới thăng cấp).
Kế tiếp Liên Ðoàn Nhảy Dù tiếp tục hành quân truy kích “Tướng” Bảy Viễn và tàn quân tại khu Rừng Sát. Vào thời gian này Thiếu Tá Nguyễn Chánh Thi lên làm Chỉ Huy Phó LÐND, ông trao TÐ5ND cho Ðại Úy Ngô Xuân Soạn làm Tiểu Ðoàn Trưởng.

Khi kết thúc cuộc hành quân tiểu trừ tàn quân Bình Xuyên tại Sài Gòn-Chợ Lớn và Rừng Sát Sài Gòn, các đơn vị nhảy dù lại được điều động hành quân tại Núi Bà Ðen Tây Ninh dẹp lực lượng Cao Ðài ly khai, và chiến dịch Ðinh Tiên Hoàng để bình định Miền Tây.

Có thể nói trong suốt gần 2 năm 1955 và 1956, lực lượng nhảy dù đã là cái xương sống chống đỡ cho nội các của chính phủ Ngô Ðình Nhiệm đứng vững trước cơn bão táp chính trị tạo nên bởi CẢ BẠN-các lực lượng giáo phái và tổ chức chính trị- LẪN THÙ- phe thân Pháp và tàn dư- Nói một cách khác nếu không có những người lính MŨ ÐỎ đã hy sinh xương máu vì lòng yêu nước đối với quốc gia dân tộc thì NỀN ÐỆ NHẤT CỘNG HOÀ CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM không thể hình thành!

Bởi trước những mua chuộc bằng tiền bạc, bổng lộc, quyền lợi rồi liên hệ tình cảm của người Pháp lúc đó; chỉ cần một cái gật đầu ủng thuận của Trung Tá Ðỗ Cao Trí vị Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Nhảy Dù, hoặc bất cứ một vị Tiểu Ðoàn Trưởng mũ đỏ nào đang hành quân, không cần phải chống lại Thủ Tướng Diệm mà chỉ cần án binh bất động không thôi, cũng đủ tạo thời cơ cho Tướng Nguyễn Văn Hinh phe thân Pháp khuấy động tình thế, khiến cho nội các của Chính Phủ Diệm phải sụp đổ, dù cho ông Diệm có được sự hậu thuẫn của Tướng Trịnh Minh Thế và một số các đơn vị của Giáo Phái Cao Ðài.

Tôi còn nhớ ngay sau khi quân bạn đã đánh đuổi các đơn vị Bình Xuyên khỏi Sài Gòn và Chợ Lớn, “Tướng” Bảy Viễn và dư đảng chạy về ẩn náu trong khu Rừng Sát, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm tổ chức buổi tiếp tận vào buổi trưa (tôi không nhớ rõ ngày) để khoản đãi và tưởng thưởng các cấp chỉ huy của đơn vị nhảy dù tham chiến, Thủ Tướng Diệm đến bắt tay từng sĩ quan chúng tôi. Trong ánh mắt long lanh biểu lộ sự xúc động ông nói rất chậm: ”Việc tái lập an ninh tại thủ đô là nhờ công lao của các chiến sĩ, tôi và chính phủ sẽ không bao giờ quên!..”



Gần 2 năm chinh chiến để chu toàn trọng trách từ dẹp quân phiến loạn Bình Xuyên tại Sài Gòn, tại Rừng Sát, bình định các lực lượng giáo phái ly khai tại Tây Ninh và các tỉnh miền Tây. Lực lượng nhảy dù là nỗ lực chính giúp chính phủ Ngô Ðình Diệm ngăn chặn được các mũi tấn công quân sự, chính trị để cuối cùng ông đã thành công trong việc ổn định xáo trộn chính trị, vãn hồi trật tự xã hội, tại thủ đô Sài Gòn cũng như từ vĩ tuyến 17 xuống mũi Cà Mau, công lao đó của các chiến sĩ Mũ Ðỏ được coi là những công thần lập quốc của NỀN CỘNG HOÀ NAM VIỆT NAM. Hy vọng mai này những người viết sử sẽ không quên.


Một vị tướng lãnh hiện đang định cư tại Hoa Kỳ từng là bạn thân cùng binh chủng với Ðại Úy Nguyễn Văn Viên kể lại:

“Sau 30/4/1975, khi CS đã chiếm toàn bộ Nam Việt Nam, chúng (CS) kêu gọi sĩ quan và Tướng Lãnh phải trình diện đi “học tập”. Ðại Úy Viên đến thăm tôi tại nhà riêng ở Sài Gòn. Ông Viên hỏi tôi: “Anh có đi trình diện tụi nó không?” Tôi trả lời: “Ðâu còn cách nào khác hơn, tôi đang sửa soạn đây”. Ðại Úy Viên khẳng định: “Tôi (NVV) không đi đâu cả, tôi sẽ tổ chức lực lượng “uýnh” bỏ mẹ tụi CS này” Rồi Ðại Úy Viên tiếp: “Anh còn vũ khí không? Xin cho tôi để giúp chúng tôi chiến đấu”

Tôi (vị tướng lãnh) nghe anh Viên nói vậy bèn đi lục lọi trong nhà tìm được một số vũ khí như súng lục hãm thanh, súng colt 45, súng cac bin, tiểu liên và đạn dược rồi trao cho Ðại Úy Viên. Ông Viên tháo rời từng khẩu cho dễ ngụy trang rồi gói riêng thành từng gói cho vào túi vải. Ông Viên nhìn quanh phòng làm việc của tôi thấy cái máy chữ nhỏ, Olivetli, ông liền hỏi xin luôn để dùng đánh máy truyền đơn. Tôi chấp nhận ngay, tôi cho ông 2 cái túi vải để đựng các món đồ tôi vừa tặng. Ông Viên cám ơn rồi kiếu từ chia tay. Chúng tôi chia tay từ đó, tôi (vị tướng lãnh) thì vào tù CS còn ông Viên ở lại quyết chiến đấu với kẻ thù để hy vọng một ngày giải thoát cho tôi.


Ông tiếp: “Sau 17 năm bị tù CS, trở lại sống tại Sài Gòn, tôi có được nghe huyền thoại thật đẹp về Ðại Úy Nguyễn Văn Viên. Rằng sau 30/4/1975, ông tổ chức một lực lượng võ trang hoạt động ngay trong khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn. Ông liên kết với các lực lượng tôn giáo và tạo được nhiều thành quả như đặt chất nổ phá hoại, trải truyền đơn kêu gọi đồng bào đứng lên chống lại bọn CS cầm quyền. Tổ chức của Ðại Úy Viên liên kết với lực lượng của linh mục Nguyễn Văn Vàng thuộc Dòng Chúa Cứu Thế và nhiều tổ chức khác đã gây được sự chú ý tại quốc nội và hải ngoại. Rất tiếc sau đó bị nội tuyến nên khoảng cuối năm 1976 các vị lãnh tụ của tổ chức là Ðại Úy Nguyễn Văn Viên, linh mục Nguyễn Văn Vàng và một số chiến hữu trong tổ chức đã bị CSVN bắt.

Ðể tuyên truyền hù doạ dân chúng. CS cho tổ chức cái gọi là “phiên toà khẩn cấp” để xử ông Viên và các vị lãnh tụ của tổ chức chống đối. Phiên toà xử ông đã được CS loan truyền trên loa phóng thanh diễn tiến cuộc xử án cho dân chúng nghe. Trong phiên toà, Ðại Úy Viên, Linh Mục Vàng và các chiến sĩ tay bị còng, dáng điệu khinh mạn bọn CS đang ngồi xử án, nét hiên ngang của các dũng sĩ đã làm cho người dân trong phòng xử đều khâm phục còn truyền tụng đến ngày nay.

Phiên toà ngắn ngủi, được tổ chức hết sức máy móc, phi công lý, không luật sư biện hộ, trên bục công tố là những tên “dép râu” mới từ bưng biền về mặt hãy còn nám màu nước phèn, thái độ đằng đằng sát khí. Kết quả của bản án đã được tụi CS soạn trước, chúng tuyên án: Ðại Úy Nguyễn Văn Viên tử hình, linh mục Nguyễn Văn Vàng chung thân khổ sai v.v..


Nguồn tin một nhân chứng hiện còn sống tại Sài Gòn là một cụ bà người Công Giáo năm nay đã gần 90 tuổi qua điện thoại cụ kể lại: “Ngày Việt Cộng xử tử Ðại Úy Viên tại Vườn Ðiều Thủ Ðức (?)vào năm cuối 1976 (cụ không nhớ ngày) nhiều dân chúng trong số đó có cụ đã tụ tập quanh “pháp trường” để chiêm ngưỡng ông lần cuối. Trước khi bắn ông, chúng (Cộng Sản) hỏi ông có muốn nói điều gì không? Ðại Úy Nguyễn Văn Viên dõng dạc trả lời: “Tôi muốn nói với các anh, người Cộng Sản, có bắn tôi hôm nay cũng không dập tắt được ngọn lửa đấu tranh của người dân trong nước, mai này sẽ có hàng trăm, hàng ngàn Nguyễn Văn Viên khác nối gót".

Nói xong Ðại Úy Nguyễn Văn Viên quay về phía đồng bào đang dự kiến, ông nói thật lớn: “Tôi xin chúc đồng bào ở lại mạnh giỏi”.

Rồi, tuy hai tay ông bị trói chặt về phía sau, nhưng Ðại Úy Nguyễn Văn Viên trong tư thế rất oai nghiêm, đầu ông ngẩng cao, ngực ưỡn về phía trước như thách đố những tay súng, một tên CS tay cầm miếng vải đen tính bịt mắt ông, ông hiên ngang nói lớn: “Các anh không cần bịt mắt tôi, tôi sẵn sàng rồi, bắn đi.”



Một loạt đạn nổ liên tiếp xuất phát từ những bàn tay CS khát máu, đã kết thúc mạng sống người con yêu của Miền Nam Việt Nam. Ðầu ông vẫn thẳng, dựa vào cái cột gỗ, tấm áo trắng của ông nhuộm đầy máu, những dòng máu đỏ từ ngực ông theo thân hình chảy dài xuống chân, thấm vào mạch đất tự do, nơi ông sinh ra và cả đời hết lòng phụng sự!

Ôi cái chết của Nguyễn Văn Viên thật kiêu hùng kỳ diệu, còn vinh hiển hơn cả người xưa. Hơn 100 năm trước, ngày 24 tháng 4 năm 1882, Tổng Ðốc Hoàng Diệu cũng đã chọn cái chết bằng cách thắt cổ tự tử sau khi không giữ nổi thành Hà Nội: Tổng Ðốc Hoàng Diệu, một trụ cột của triều đình nhà Nguyễn, ngài nhận lệnh vua trấn thủ thành Hà Nội. Khi thành mất về tay địch, ngài đã lựa cái chết để giữ trọn khí tiết của kẻ sĩ và một tôi trung, sự tuấn liệt đó, đã được sử sách hết lời ca tụng! Ðó là truyện đời xưa.

Truyện đời nay được truyền tụng rằng: “Vào cuối thế kỷ 20, trong cuộc chiến tranh giữa thiện và ác, giữa chính và tà, giữa những người khát vọng tự do và bọn CS độc tài khát máu, có một dũng sĩ cương quyết chống lại chủ thuyết CS, chống lại bọn CSBV gian ác. Ông quy tụ những người cùng chí hướng nổi lên chống lại chế độ cầm quyền, người đó là Nguyễn Văn Viên.

Ðại Úy Nguyễn Văn Viên từng là công thần xây dựng Nền Ðệ Nhất Cộng Hoà nhưng chẳng bao lâu, ông bị bỏ quên ngay, Quân Ðội ruồng bỏ, đường hoan lộ của ông lang bang từ ông xuống thằng nhưng ông vẫn cắn răng chịu đựng hết lòng thủy chung.15 năm sau tưởng như giã từ vũ khí, nhưng đầu năm 1972, khi tuổi đời đã “tà tà bóng ngả ”, ông nhận được lệnh tái ngũ, rồi đươc trao cho một chức vụ không hợp với khả năng.

Ông thản nhiên chấp nhận không phản đối. Ấy thế mà khi chính quyền Miền Nam mất về tay CS, Quân Ðội không còn đủ khả năng bảo vệ người dân. Trong lúc mọi người tuyệt vọng thì ông đứng lên. Trong lúc mọi người đau khổ, thì ông sẵn sàng chia sẻ. Trong lúc mọi người mất tự do, thì ông vùng lên tranh đấu. Ông tự cảm thấy cá nhân ông vẫn còn trách nhiệm với Tổ Quốc Nam Việt Nam và đồng bào ruột thịt.

Nét hiên ngang của Nguyễn Văn Viên, là sau 30/4/1975, cũng như các đồng đội khác để tự cứu sinh mạng, có thể tìm đường vượt thoát ra hải ngoại hay vào tù CS, nhưng chiến sĩ Nguyễn Văn Viên đã chọn cho mình một hướng đi mà con đường trước mặt đầy gian nan, nguy hiểm. Ông hy sinh hạnh phúc riêng tư và hiến dâng sinh mạng của mình cho đại nghĩa. Gương tuấn liệt của ông đã làm kẻ thù (CS) phải cúi đầu xấu hổ và thức tỉnh biết bao trái tim yêu nước cho đến ngày hôm nay. Tôi thực hiện bài viết như lời tiễn biệt người chiến sĩ tuẫn liệt cùng hy vọng từ tâm khảm thắp lên nén hương cho Chiến Sĩ Nguyễn Văn Viên và biết bao chiến sĩ hữu danh, vô danh khác để bày tỏ tấm lòng thương cảm, biết ơn vô vàn. Bây giờ là 4 giờ sáng, đêm ngày 27 tháng 2 năm 2009, ngoài trời vẫn còn tối, không gian hoàn toàn im lặng và từ phía bên kia bờ đại dương thật xa đột nhiên văng vẳng giọng ca cao vút của người nữ ca sĩ năm xưa, trong Bài Ca Chính Huấn như rót vào tai tôi: “Người nằm xuống đây, cho ta đứng lên từ quê hương này. Người nằm xuống đây, khi chưa viết xong trang sử đấu tranh. Người đã ra đi theo vận nước”.

Thiên kỷ này, Ðại Úy Nguyễn Văn Viên không còn nữa! nhưng tinh thần Nguyễn Văn Viên còn vằng vặc ngàn năm!

Khởi viết ngày 17 tháng 1 năm 2009, sưu tầm tài liệu, up-date tin tức, nhuận sắc, trình bày kỹ thuật và đánh máy xong ngày 10-3-2009 tại Vùng Tây Bắc Hoa Kỳ.

Cựu Mũ Ðỏ Phạm Huy Sảnh

* Tác giả ghi chú: 1. Khi bài viết đã hoàn tất, tác giả nhận được thêm tin tức sau: Ðầu năm 1972, hồ sơ gọi tái ngũ của các sĩ quan được Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu trình lên Ðại Tướng TTMT, Ðại Tướng Cao Văn Viên duyệt đến hồ sơ của Ðại Úy Viên. Vị Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng không đồng ý về những biện pháp mà Quân Ðội đã áp dụng đối với Ðại Úy Viên vào năm 1957. Tướng Viên cho lệnh Phòng Tổng Quản Trị thăng cấp Thiếu Tá nhiệm chức cho Ðại Úy Nguyễn Văn Viên kể từ ngày tái ngũ. Có nghĩa là khi chiến sĩ Nguyễn Văn Viên về trình diện SÐ9BB, ông đã mang cấp bậc Thiếu Tá Nhiệm Chức cho đến 30/4/1975. Tác giả xin trân trọng bổ túc. 2. Xin cám ơn quý vị Tướng Lãnh Nhảy Dù, quý Linh Mục và cụ bà thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, các chiến hữu của TÐ5ND, Colonel Mike Mc Dermott, cựu cố vấn của TÐ5ND, các chiến hữu Mũ Ðỏ từ Âu Châu, đã giúp chúng tôi các tin tức, hình ảnh, và tư liệu. Cùng các em Hà, Ðặng phụ trách kỹ thuật để hoàn tất bài viết.

Phạm Huy Sảnh


TRẬN TÂN CẢNH: Kẽm Gai Bọc Thây Anh Hùng - Bùi Ðức Lạc


Bùi Ðức Lạc


Thực tình tôi không muốn viết bài này vì nó cho tôi một kỷ niệm nhiều đau thương nhất trong cuộc đời binh nghiệp vốn dĩ đã kém may mắn cuả tôi, hơn nữa tôi không muốn gợi lại những chuyện (sự thật đau lòng) nhưng một vị đàn anh đã yêu cầu nên tôi đành vâng lời, tôi cố gắng chỉ viết những gì thật cần thiết, còn những gì không cần thiết tôi xin được né tránh, một điều xin thưa rằng đây là sự thực những gì tôi thấy, những gì tôi nghe; nhớ tới hình dáng người dân địa phương, lưng mang gùi nặng tay vẫy chào như trao trách nhiệm bảo vệ thôn rẫy, mà lòng nào đành quên sao? Nhớ tới những vị đàn anh, những người bạn, những người em lạc lõng tại SÐ22BB mà lòng nao nao bất ổn, đây là một cuộc hành hạ không phải là một trận đánh, tôi không hiểu sao sau khi SÐ22BB bị bỏ rơi tàn bạo mà tôi còn đủ tinh thần tiếp tục chiến đấu, tôi vẫn ngạc nhiên tại sao chúng ta vẫn hiên ngang ôm lấy quê hương cho đến năm 1975.

Nguyễn Ðình Bảo mới ra đi hun hút, tôi lặng người trước cơn gió tây Hạ Lào, dáng dấp lao đao như muốn ngả theo gió, cách nay 5 năm tức năm 1967 tôi đã tiễn một người bạn đồng cư trong trại Học sinh di cư Phú Thọ ra đi tại đây Nguyễn Thu, toàn những mất mát rơi rụng không bao giờ cầm lại được, năm 1959 tôi cùng Ðại Úy Lai văn Chu Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 7 Bộ Binh SÐ3DC chơi Vũ Cầu rất thân thiết, hai năm sau ông đổi lên Tân Cảnh rồi hai năm sau nữa tôi thấy tên ông trên cổng trại Trung Ðoàn 42 Bộ Binh tức doanh trại Bộ Tư Lệnh Hành Quân cuả SÐ22BB bây giờ.

Tôi được đọc hai cuốn sách của hai tác giả rất nổi danh và bài viết của vị trưởng Phòng 2 Quân Đoàn II tuy chỉ nói phớt qua về SÐ22BB nhưng điểm chính đều sai lạc. Cuốn thứ nhất tôi được đọc khoảng năm 1988 trong sách nói (khi bị tấn công thì Trung Ðoàn 42 thuộc SÐ22BB và Bộ Tư lệnh của Sư Đoàn này đầu hàng). Cuốn thứ hai khoảng năm 1994 nói (sau khi bị địch quân vây hãm Ðại Tá Lê Ðức Ðạt Tư Lệnh SÐ22BB được trực thăng bốc ra ngoài), bài viết của vị Trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn tôi được đọc năm 1996 (SÐ22BB thua là do rút Nhảy Dù đi nơi khác). Tôi thật sự không hiểu tài liệu tham khảo ở đâu vậy.

Thứ nhất: SÐ22BB không hề đầu hàng mà bị thất thủ.

Thứ hai: Ðại Tá Tư Lệnh SÐ22BB tử trận ngay tại chỗ.

Thứ Ba: tôi chính là người cho lệnh bắn yểm trợ sau cùng, và có lẽ là người sau cùng tiếp chuyện trên máy với vị Tư Lệnh khả kính này trước không đầy 3 phút khi ông vĩnh viễn ra đi.

Rải rác khắp các vùng chiến thuật biết bao nhiêu chiến sĩ Vô Danh đã anh dũng chiến đấu và hiên ngang gục ngã họ chẳng bao giờ được nhắc nhở và nếu may mắn được nhắc tới thì cũng chứa chất hàm hồ sai lạc như các chiến sĩ SÐ22BB. Gặp lại những người bạn cũ trên chiến trường này than phiền về những bất công cuả dư luận, nhất là một người anh nên tôi xin kể lại trận đánh có một không hai này.

Ngày 14-4-1972 tôi tháp tùng Ðại Tá Lữ Ðoàn Trưởng LÐ2ND bay trên căn cứ Charlie, chúng tôi không sao ngăn được những giọt lệ tự nhiên lăn trên gò má. Căn cứ Charlie không còn nữa mà chỉ còn là một vùng đất đỏ, trông như một khu đất mới được cầy lên để chuẩn bị canh tác không một công sự nào còn tồn tại, tất cả mọi sinh vật trong vùng này đều bị hủy diệt và chắc chắn không còn nguyên vẹn hình hài, tôi sẽ nấc lên khi gọi tên Bảo, tthân xác anh đích thực đã trở thành tro bụi, cùng với các chiến sĩ anh hùng TÐ11ND và một Trung Ðoàn của SÐ320 Cộng Sản Bắc Việt, những tấm thảm B52 đã trải lên Charlie để Charlie không còn tồn tại trên thế gian này. Tuy vậy phòng không của địch trên sườn Yankee và khoảng giữa Delta và Charlie và dưới sườn phía đông nam của Charlie cũng giăng lưới đầy trời, tôi trình bầy với ÐT/LÐT những vùng thông thủy không có phòng không chắc chắn các đơn vị chúng đang ẩn náu tại đó nếu không phòng không của chúng đã rút đi rồi, ta nên xử dụng Pháo Binh, ÐT/LÐT đồng ý ngay và những loạt đạn TOT phủ xuống như một tấm thảm B52, quả nhiên vì không hầm hố cho nên địch quân chạy tán loạn, và đương nhiên không khi nào các Pháo Thủ Mũ Ðỏ lại để chúng an lành như vậy, sau một giờ bay vừa tránh đạn phòng không vừa điều chỉnh Pháo Binh. Phi công xin đi đổ xăng chúng tôi đáp xuống Tân Cảnh. Trực thăng bay đi phi trường Phượng Hoàng đổ xăng; chúng tôi vừa đến cửa Trung Tâm Hành Quân (TTHQ) của BTL/SÐ22BB thì hoả tiễn của địch dàn chào ngay, một vị sĩ quan nói đùa (chúng nó chào mừng Nhảy Dù đó). Tại TTHQ Ðại Tá Lê Ðức Ðạt TL/SÐ22BB đề nghị cùng ÐT/LÐT/LÐ2ND là cho TÐ9ND do Trung Tá Trần hữu Phú làm TÐT vào giữ căn cứ Tân Cảnh, nhưng ÐT/LÐT/LÐ2ND không đồng ý với những lý do sau đây:

Thứ nhất: trong căn cứ quá đông người.

Thứ hai: việc bảo vệ BTL/SÐ22BB phải do đơn vị cơ hữu chiụ trách nhiệm.

Thứ ba: các đơn vị Nhảy Dù lưu động có hiệu quả hơn là nằm một chỗ.

Tôi nhìn thấy nỗi lo lắng hiện trên khuôn mặt hiện đang khắc khổ của vị TL/SÐ22BB. Sau đó ÐT/LÐT/LÐ2ND đề nghị nên cho TÐ9ND đang trong vùng của LÐ2ND vào chiếm những cao địa hướng đông đông bắc của Tân Cảnh còn BCH/TÐ nên cho đóng tại phi trường Phượng Hoàng vì dẫy núi này sẽ chế ngự mọi hoạt động không vận cho Tân Cảnh và phi trường Phượng Hoàng, ÐT/TL/SÐ22BB mừng rỡ và đồng ý ngay, ông đề nghị Nhảy Dù nên xin tăng cường quân, nhưng ông đâu có biết hiện nay Sư Ðoàn Nhảy Dù không còn một đơn vị nào tại hậu cứ.

Ngày 15-4-1972 toàn bộ TÐ9ND vào vùng hành quân mới, hai Ðại Ðội do Thiếu Tá Võ thanh Ðồng TÐP chỉ huy, dùng trực thăng chiếm các cao địa nhưng ngày khởi đầu hai trực thăng bị bắn rơi vì LZ (bãi đáp) được dọn quá sơ sài. Ngoài tầm của các Pháo Ðội TÐ1PB/ND, hơn nữa TÐ9ND được tăng phái cho SÐ22BB nên tôi không có trách nhiệm đổ quân cũng như dọn bãi đáp, ngược lại lúc này tôi phải yểm trợ trực tiếp cho một Liên Ðoàn BÐQ mới được tăng phái dưới quyền chỉ huy của LÐ2ND. Hai đại đội còn lại của TÐ9ND tung vào lục soát khu vực hướng bắc và tây bắc của căn cứ Tân Cảnh tức hướng tây của phi trường Phượng Hoàng còn lại BCH/TÐ9ND đồn trú ngay tại phi trường Phượng Hoàng. Như vậy ngoài vòng đai căn cứ Tân Cảnh từ hướng Tây bắc sang đến hướng đông đông bắc là do TÐ9ND trách nhiệm, còn các hướng khác là do các đơn vị cơ hữu của SÐ22BB trách nhiệm.

Ngày 18-4-1972 khoảng 2330g địch quân pháo và đánh thăm dò căn cứ, từ chùa Tân Cảnh địch quân dùng hoả tiễn điều khiển bắn các chiến xa phòng thủ trong căn cứ, nhưng không một chiến xa nào bị hạ. Ngày 19-4-72 chúng tôi lại đáp xuống Tân Cảnh thì các sợi dây mầu xanh, đỏ, vàng điều khiển hoả tiễn còn vương vãi trên hàng rào phòng thủ, vị trí đặt hoả tiễn ngay tại chùa Tân Cảnh tức phía tây nam căn cứ cách không tới 1Km, nên ngoài tầm chính xác của hỏa tiễn đó là lý do không trúng chiến xa của ta, nhưng nó đã làm cho quân ta xuống tinh thần không ít. Tôi vòng phía nam căn cứ thấy đang huấn luyện chống chiến xa địch nhưng từ HLV trở xuống không ai thấy chiến xa địch bao giờ, và lúc này dàn phòng không của địch đã đến gần căn cứ chúng tôi là người phát hiện đầu tiên, khi địch quân khai hỏa nếu chúng tôi bay cao một chút, hay bay sát lộ thì đã bị hạ rồi, nhưng vì bay sát ngọn cây và xa đường lộ nên thoát nạn. Vị trí phòng không ngay sát căn cứ trong vùng trách nhiệm của SÐ22BB gần trên đường đi Võ Ðịnh nơi đóng quân của LÐ2ND. Lúc này bất cứ ai cũng cảm thấy địch quân sắp sửa dứt điểm Tân Cảnh, nhưng cấp trên cũng vẫn chưa cho không quân chiến lược can thiệp, còn không quân chiến thuật cũng rất hạn chế, khi đánh căn cứ số 6 hay căn cứ số 5, chúng tôi xin không quân chiến thuật còn dễ dàng và dồi dào hơn bây giờ. Lúc đó ta chỉ là cấp đại đội bị vây hãm, còn bây giờ sự an nguy cho cả một Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn và một Trung Ðoàn cộng. Vậy mà cấp trên vẫn thờ ơ. Sức người có hạn hỏi làm sao chống đỡ được đây? Nhất là hiện nay trục lộ tiếp tế cũng đã bắt đầu bị chặn đứng, trong khi những đoàn xe tiếp tế của địch quân di chuyển cả ban ngày, còn ban đêm xe địch quân di chuyển, đèn sáng như trong thành phố vậy. Hỏi làm sao tinh thần của anh em SÐ22BB còn vững được. Các dấu hiệu rõ ràng sự xuất hiện cuả SÐ320, SÐ304, SÐ986, các trung đoàn phòng không, các trung đoàn chiến xa. Thời điểm này nếu chúng ta khôn ngoan một chút thì phải cho BTL/SÐ22BB rút về cố thủ tại Kontum. Tân Cảnh nếu cần chỉ nên để lại một trung đoàn là nhiều, chứ không nên để một BTL/SÐ làm tiền đồn cho Quân Ðoàn, lúc đó quân số mà BTL/SÐ22BB chỉ huy chỉ vỏn vẹn có Trung Ðoàn 42 Bộ Binh còn Lữ Ðoàn Nhảy Dù thì Bộ Tổng Tham Mưu có thể rút đi bất cứ lúc nào, ai cũng rõ là địch sẽ dùng một Sư Ðoàn cộng với chiến xa để dứt điểm Tân Cảnh, trong khi SÐ22BB chỉ có một Tiểu Ðoàn trú trong căn cứ để bảo vệ BTL. Không có chiến lược hay chiến thuật nào lại xử dụng BTL/SÐ làm tiền đồn bao giờ, một sự bất nhẫn tàn bạo đã phí mạng hàng trăm quân nhân và làm thành làn sóng bất mãn. Quân số không quan trọng bằng tinh thần, tôi thấy anh em trong căn cứ tinh thần xuống từ khi không được yểm trợ không quân đúng mức nhất là những mục tiêu rõ ràng, chẳng hạn như đoàn xe địch di chuyển ban ngày không bị một lực lượng nào ngăn cản, hay những vị trí phòng không, vị trí pháo binh của địch. Việc Tân Cảnh còn hay mất chỉ còn chờ thời gian khi nào địch quân khởi sự tấn công mà thôi thật sự là như vậy. Tôi đang ghi chép những vùng địch tập trung, ÐT/TL/SÐ22BB gọi tôi ra chỗ vắng dặn dò (tôi quen ÐT Ðạt khi ông còn là Tỉnh Trưởng Bà Riạ không lần nào xuống Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp thao dượt mà ông lại quên đón chúng tôi vào tư dinh để hàn huyên, tôi thường gọi ông bằng anh, chỉ gọi bằng cấp bậc những khi có mặt người khác) .

- Anh cảm thấy nguy đến nơi rồi, bọn Tây (Cố Vấn Mỹ) mấy hôm nay nó có thái độ rất lạ lùng, chú mày nhớ rằng có chuyện gì phải vào tần số chỉ huy để yểm trợ cho anh.

- Anh nên vào tần số của em dễ làm việc hơn tốt nhất anh nói bên Pháo Binh biệt phái một toán Sĩ Quan Liên Lạc bên cạnh anh, họ sẽ có đủ đặc lệnh Truyền tin để liên lạc với em.

- Ừ như vậy tiện đó, nhớ rằng anh rất cần em khi có biến động.

- Anh cẩn thận em thấy không được yểm trợ đúng mức anh em trong căn cứ có vẻ mất tinh thần. Ông gật đầu tỏ dấu không còn làm gì hơn được. Ông bắt tay tôi thật chặt trước khi chia tay, mắt ông đờ đẫn vì nhiều đêm mất ngủ, chúng tôi trở về căn cứ Võ Ðịnh nhìn cách phòng thủ và tinh thần cuả anh em Mũ Ðỏ tôi an tâm, đặn dò Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực nếu SÐ22BB bị đánh phải gọi tôi dậy ngay, dầu gì tôi cũng chỉ còn Pháo Ðội trên Yankee là có thể bắn cho Tân Cảnh, được đạn dược trên đó còn. Hai Pháo Ðội 105 ở Võ Ðịnh và Non Nước thì mút tầm, có thể xử dụng 155 ở Non Nước. Tôi dặn dò các Pháo Ðội liên hệ, cũng là lúc mà tôi điều khiển tác xạ vào vùng tập trung quân chung quanh Tân Cảnh, hai Pháo Ðội mặc dù mút tầm tôi vẫn cho bắn vào những nơi không qua đầu hay thẳng trục đồng hồ chỉ 0300G vậy mà ÐT Ðạt vẫn còn trên máy, trận Hạ Lào cũng không làm tôi bối rối như trận này.

Ngày 20-4-72 các đơn vị hoạt động chung quanh căn cứ Tân Cảnh ghi nhận địch quân di chuyển đông và tiến dần về Tân Cảnh, hướng tây bắc (DAKTO) có tiếng đoàn chiến xa di chuyển. Khi bay lên vùng này chúng tôi cố gắng tìm dấu vết chiến xa nhưng địch quân không để lộ dấu vết. Như vậy chiến xa địch nếu có cũng ít mà thôi. Ðồng thời ÐÐ2TS/ND cũng làm thịt những toán TSV/PB cũng như những toán tiền thám cuả địch chung quanh căn cứ cuả LÐ2ND (Võ Ðịnh).

- Ngày 21-4-72 các ÐÐ cuả TÐ9ND bắt đầu chạm địch cánh quân trên núi đụng rất nặng, một ÐÐ Trưởng tử thương, TÐP bị thương nặng không sao có thể tản thương được, hai ÐÐND hoạt động hướng tây bắc Tân Cảnh bắt sống được một tù binh trong toán Tiền Sát Viên Pháo Binh. Tù binh khai thuộc SÐ968 và mới từ Bắc vào bổ xung cho đơn vị này, theo kinh nghiệm khi nào TSV/PB tới gần tức là để điều chỉnh Pháo Binh và không bao giờ chúng đi một toán, mất toán này còn toán khác, khi Pháo địch đã hoạt động trúng ta, là thời điểm tấn công cũng bắt đầu, pháo bắt đầu mãnh liệt từ 1800G và lúc 2300G chúng tấn công thăm dò căn cứ, lần này chúng tấn công quy mô hơn, hỏa lực vũ bão hơn, vậy mà không quân chiến thuật chỉ yểm trợ có một phi tuần mà thôi, một tiền đồn với cấp Ðại Ðội nếu bị đánh cũng không đến nỗi yểm trợ rời rạc như vậy, từ hôm đó một vị sĩ quan Pháo Binh bên cạnh TL/SÐ22BB bắt đầu liên lạc với TÐ1PB/ND tôi được biết là Ð/U Hưng, Hưng làm việc rất giỏi và rất cẩn trọng.

- Ngày 22-4-72 ban Cố Vấn trốn khỏi Tân Cảnh bằng trực thăng không thông báo cho BTL/SÐ22BB biết, tuy nhiên mọi người đều biết trước vì đang đêm 2400G ban Cố Vấn đánh dấu bãi đáp, trong lúc địch đang pháo mạnh, ban ngày lúc địch pháo cũng như tấn công mạnh đã thấy họ dọn bãi đáp cho trực thăng ngay sát phòng Cố Vấn, một vài sĩ quan có đề nghị với ÐT/TL không cho Cố Vấn đi, nhưng ông cười và đáp ngắn gọn (cho họ đi) nhờ vậy toán Cố Vấn ra đi an toàn, từ lúc đó địch quân đánh mạnh, cường độ Pháo cũng gia tăng. Hướng tấn công chính là ngay cổng chính tức là hướng từ phố Tân Cảnh, có tiếng xe tăng từ hướng Dakto chạy về, và xe tăng địch khởi sự bắn đại bác không giật và đại liên vào căn cứ, anh em trong căn cứ cố gắng mở hàng rào từ phía nhà của Cố Vấn để băng sang Phi Trường Phượng Hoàng, hy vọng bắt tay với TÐ9ND, toán Công Binh do đích thân vị Tiểu Ðoàn Trưởng Công Binh chỉ huy phá hàng rào cũng đành bó tay vì hàng rào được làm bằng thùng xăng 200 lít nhồi đất và gài mìn dầy đặc cộng với kẽm gai, các cột kẽm gai được đúc bằng xi măng rất kiên cố, về sau phải xin Không Quân oanh tạc mở đường, nhưng phòng không của địch quá mạnh, máy bay không sao xuống thấp được.

- Ngày 23-4-1972 tức là ngày chủ nhật, Pleiku hay Sài Gòn giờ này có thể trời đang đẹp 1000G không Quân mới giúp mở được hàng rào có thể rút sang phi trường, tuy vậy muốn băng qua được cũng vẫn còn rất khó khăn, lúc này TÐ9ND cũng bị tấn công mạnh, bốn đại đội tác chiến đều ở ngoài nên BCH/TÐ không có khả năng tiếp cứu, 1300G thiết giáp hạng nhẹ của địch không một chiếc nào bị thương vào tới cột cờ, nhưng địch không có tùng thiết cho nên thiết giáp nằm tại đó, quân ta vẫn cứ chạy qua mặt thiết giáp ra phiá hàng rào đã phá. Hưng liên lạc cho tôi cho biết anh và Ðại Tá TL/SÐ22BB ra tới hàng rào, lúc đó ÐT/TL giật lấy máy.

- 11 (chỉ danh cuả tôi) đây 01 (chỉ danh cuả ÐT/TL/SÐ22BB. Nguy rồi 11 anh bắn ngay vào sân cờ thiết giáp nó vào sân cờ rồi.

- 01 đây 11 tôi thi hành ngay.

- 11 đây 01 anh tiếp tục cho bắn như vậy may ra tôi có thể gặp Cửu Long (TÐ9ND) được, khoảng 2 phút sau tôi nhận được Hưng gọi.

- 11 đây Hồng Hà gọi ............... 01 theo ông Bắc Bình rồi.

Tôi hiểu Hưng muốn nói gì nhưng tôi cũng cứ hỏi lại.

- Hồng Hà đây 11 anh nói gì lập lại.

- 11 dây Hồng Hà tôi nói .......... 01 theo ông Bảo rồi.

- Hồng Hà đây 11, anh cố gắng mang 01 sang Cửu Long được không.

- Không được vì xe tăng nó bắn nên kẽm gai quấn chặt lấy ông ấy rồi, tôi cố gỡ ra nhưng không ai có kềm cắt kẽm gai cả. Giọng Hưng yếu hẳn đi tôi nghe rõ tiêng nổ chát chúa và tôi hoàn toàn mất liên lạc từ lúc 1410G ngày 23-4-72. Cho tới giờ phút này cuối tháng 4-97 tức 25 năm sau từc 1/4 thế kỷ, thương nhớ ngày Tân Cảnh thất thủ, chỗ Ðại Tá Ðạt và Hưng nằm xuống tại đâu, chỗ nào tôi vẫn còn nhớ, cỏ cây dù có che lấp hình hài các anh nhưng tôi không sao quên được chỗ nằm của các anh những anh hùng của SÐ22BB, tôi biết các anh nằm xuống mà không sao nhắm mắt được./.

Cho tới giờ phút này cuối tháng 4-97 tức 25 năm sau từc 1/4 thế kỷ, thương nhớ ngày Tân Cảnh thất thủ, chỗ Ðại Tá Ðạt và Hưng nằm xuống tại đâu, chỗ nào tôi vẫn còn nhớ, cỏ cây dù có che lấp hình hài các anh nhưng tôi không sao quên được chỗ nằm của các anh những anh hùng của SÐ22BB, tôi biết các anh nằm xuống mà không sao nhắm mắt được.

Bùi Ðức Lạc

leducDat 22bb


KHÓI LỬA ÐÔNG HÀ - Ðại Úy Lê Hoàng Lương


Ðai Úy Lê Hoàng Lương
Sinh quán Ðại Nẫm, Hàm Thuận tỉnh Bình Thuận
Hiện ở Houston TX

Khóa 20 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức,
Pháo Binh thuộc Sư Ðoàn 2 Bộ Binh đóng tại Quảng Ngãi.
1968 ố 1973 Pháo đội trưởng Pháo đội C, Tiểu đoàn 20 PB
1973 tu nghiệp khóa Tiểu đoàn trưởng TÐ/PB tại Dục Mỹ
1973 ố 1975 Pháo đội trưởng Pháo đội B , TD220 PB đóng tại Qui Nhơn.


Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972

Cộng quân ồ ạt xua quân xâm chiếm toàn cỏi lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà. Lúc bấy giờ Pháo Ðội của tôi chia làm ba. Một đóng tại quận Sơn Hà, một đóng tại Bình Liên và một đóng tại Ðức phổ với Bộ Chỉ Huy Pháo Ðội. Ðường từ Ðức Phổ về Quãng ngãi đã bị Cộng quân chia cắt thành từng mảnh nhỏ. Tôi đang buồn bực vì bị giam chân tại đây, bỗng Hiệu Thính Viên Pháo Ðội bước vào:

- Trình Ðại Bàng, Hoàng oanh cần gặp (Hoàng Oanh là danh hiệu Tiểu đoàn Trưởng)

- Trình Hoàng Oanh, Tôi, Linh Chi đầu máy (Linh Chi là danh hiệu của tôi)

- Năm phút nữa trực thăng sẽ vào bốc các cậu về trình diện tôi, nhớ mang theo đồ dùng cá nhân và hai đệ tử.

Ba thầy trò chúng tôi chưa kịp bỏ đồ cần thiết vào ba lô thì đã nghe tiếng trực thăng. Trực thăng đáp xuống Bộ Chỉ Huy/Tiểu Ðoàn ở căn cứ Chu Lai. Vị Tiểu đoàn Trưởng của tôi và cả Chỉ huy Trưởng Pháo Binh Sư Ðoàn đều có mặt ở bãi đáp. Sau thủ tục lễ nghi quân cách, ông tóm tắt:

- Cộng quân đang bao vây căn cứ Carol nơi BCH/Trung Ðoàn 56/Sư Ðoàn 3 Bộ Binh trấn giữ, và các Trung đoàn của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh cũng bị Cộng quân vây chặt. Trước tiên chúng ta có một Pháo Ðội tiên phong ra giải vây. Cả đêm hôm qua tôi và Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư đoàn suy nghĩ mãi, và cuối cùng quyết định cử cậu và chỉ có cậu mới hoàn thành trọng trách này.

Với lòng tự hào cá nhân tôi mỉm cười. Xin Hoàng Oanh yên tâm, tôi sẽ đem chiến thắng về cho đơn vị.

Vị Tiểu đoàn Trưởng khả kính của tôi đã lo tất cả. Trong lúc cấp bách ông đã gom một trung đội của Pháo Ðội A, cùng một Pháo Ðội B và một Pháo Ðội C sáu khẩu Ðại Bác sẵn sàng, cộng với sáu chiếc xe GMC mang theo đạn dược và cả chiếc Dodge dùng làm Ðài Tác xạ của Tiểu Ðoàn, ông cũng ưu tiên dành cho tôi, ông lại đưa tôi vào quán cơm bên đường đãi một chầu như tiễn Kinh kha qua sông Dịch Thuỷ.

Sau khi uống vội một chai bia 33, tôi nhận lệnh hành quân, bản đồ, đặc lệnh truyền tin, điểm quân và ra lệnh xuất phát. Chúng tôi vượt qua đèo Hải Vân, tiến về Quảng trị.

Ðêm nay dừng quân ở Phú Văn Lâm (Huế). Sau khi cho Pháo Ðội chiếm đóng vị trí, tôi vội vã bay đến An Cựu gặp người yêu bé bỏng của tôi là cô nữ sinh Ðồng Khánh trong giây lát thật ngắn ngủi. Sáng hôm sau nàng đã đến tiễn tôi đi vào vùng lửa đạn, hình như có giòng lệ ở buổi chia tay.

Em ở đây bên dòng sông êm ả
Tôi băng mình vào khói lửa chiến trường
Em về ôm nỗi nhớ thương
Tôi đi, áo trận còn vương lệ sầu.

Chiều hôm đó tôi trình diện Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Ðoàn 3, và Pháo Ðội của tôi được đến căn cứ Ðông Hà, một căn cứ cũ của Mỹ cách quận Ðông Hà một chiếc cầu. Với nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho Trung Ðoàn 56 Bộ Binh Sư Ðoàn 3. Nhìn lên bản đồ hành quân căn cứ Carol, nơi Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 56 trấn giữ cách chúng tôi 14 km, và trong tầm yểm trợ pháo của chúng tôi, tất cả các căn cứ của quân ta đang bị vây chặt .

Sau khi chiếm đóng xong vị trí, tôi gióng 6 cây Ðại Bác 155 ly hướng thẳng về căn cứ Carol và bắn ngay một quả đạn khói, rồi lên máy liên lạc với SQ liên lạc Pháo Binh.

- Tôi từ Sư Ðoàn 2 Bộ Binh mới đến, Ðại Bàng xem quả Khói của tôi có chính xác không?

- Ðẹp lắm, anh cố gắng yểm trợ tối đa cho tôi.

Suốt đêm hôm đó tôi ngồi bên cạnh chiếc máy Truyền Tin với bao thuốc lá và ly cà phê, và ra lệnh tác xạ liên tục. Ðó là thói quen của tôi mỗi khi quân bạn đụng trận, tôi không bao giờ rời đài tác xạ nửa bước.

Cuối cùng Cộng quân đã tràn ngập vị trí, CVT ... tuyến đỏ bắn ngay lên đầu tôi. Ðó là tiếng nói hào hùng của một vị Sĩ quan khoá đàn anh của tôi.

Bây giờ anh ở đâu?

Ðã đi vào lòng đất mẹ? Vì đạn của địch quân hay là mảnh đạn pháo của tôi? Hay đang phiêu bạt tha hương như tôi?

Than ôi! Viện binh đến quá muộn, địch quân lại quá đông, Pháo Ðội của tôi quá nhỏ bé làm sao chận được bước tiến của quân thù?

Sáng hôm sau Bắc quân chỉ còn cách chúng tôi 500 mét. Ðơn vị bảo vệ căn cứ đã rút đi tự bao giờ. Tôi vội vàng lên máy và nhận được lệnh từ Bộ Chỉ Huy Hành Quân.

"Lệnh Mặt Trời phải tử thủ ở đó". Pháo của tôi vẫn nổ đều yểm trợ các cánh quân bạn, màn đêm từ từ buông xuống, chỉ còn Pháo Ðội của tôi ở tuyến đầu lửa đạn. Lạnh cẳng, thật lạnh cẳng, tôi vội vã bay về Bộ Chỉ Huy Hành Quân, vào gặp Tư Lệnh Chiến Trường, lúc bấy giờ là Ðại Tá Nguyễn Trọng Luật, Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn I Thiết Kỵ, ông ta rất ngạc nhiên vì sao giờ này Pháo Ðội của tôi vẫn còn ở đó.

Lạnh lùng tôi vội vàng ra lệnh rút quân về Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Trong đêm tối, không trăng sao, đoàn xe từng chiếc, từng chiếc với hệ thống đèn mắt mèo rời khỏi căn cứ Ðông Hà, chỉ trong 24 giờ chiếm đóng, dưới ngọn đèn Pin leo lét tôi vội vã thám sát vị trí, tìm nơi đặt pháo, và sau đó đạn pháo vẫn nổ đều trên trận địa. Lại một đêm nữa tôi thức trọn.

Sáng hôm sau nhìn lại vị trí đóng quân là một bãi cỏ xanh thật đẹp. Nơi đây nằm giữa Ái Tử "Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh" và Ðông Hà. Ðây là nơi mà vua Bảo Ðại ngày xưa thường đến đây để săn bắn. Căn cứ Carol thất thủ, Bắc quân tiến chiếm Ðông Hà và Pháo Ðội của tôi ở ngay tuyến đầu lửa đạn. Các cánh quân thất trận, co cụm quanh chúng tôi cố giữ vững phần đất còn lại của quê hương. Cộng quân tiến đánh tập trung pháo hòng tiêu diệt chúng tôi. Thôi thì đủ loại pháo từ 130ly, 122ly, Cối.v.v... chúng tập trung với mức độ khủng khiếp, chúng tôi vẫn kiên cường chống trả. Tôi từ xưa vẫn có tiếng là chỉ huy mát tay, nên mặc dù bị pháo liên miên. Pháo Ðôi vẫn không bị tổn thất nào về nhân mạng. Riêng cá nhân tôi nhờ ơn trên phù hộ, thoát hiểm không biết bao nhiêu lần. Một quả 122ly nổ ngay Ðài Tác Xạ khi tôi vừa bước ra ngoài. Một quả 130ly nổ ngay khẩu pháo khi tôi vừa rời nơi đó không đầy hai phút, hay những lúc Pháo Ðội di chuyển để tránh Pháo địch, vừa đến vị trí đóng quân Pháo địch nổ quanh tôi, không hầm, không hố, tôi chỉ biết nhắm mắt. Chúng tôi kiên cường chống trả trong một tuần lễ, và vẫn giữ vững được trận địa. Sau đó viện binh ồ ạt kéo đến như Trung Ðoàn 5, sư Ðoàn 2 Bộ Binh; Tiểu Ðoàn 22 pháo Binh; Liên Ðoàn 4 Biệt Ðộng Quân; Lữ Ðoàn 147 Thuỷ Quân Lục Chiến; Lữ Ðoàn 258 Thuỷ Quân Lục Chiến và Lữ Ðoàn I Dù .v.v...

Tôi tin tưởng vào một chiến thắng và cũng như bao cuộc hành quân tôi đã tham dự. Tôi nghĩ rằng Bắc quân rồi cũng sẽ thảm bại.

Pháo Ðội của tôi ở đây chiến đấu một tháng. Những lúc chiến trường bớt sôi động, tôi bay về Cổ thành Quảng Trị. Ở đây vẫn sinh hoạt bình thường, dân chúng vẫn thản nhiên, các quán ăn, chợ vẫn tấp nập kẻ ra vào. Nhìn các bông hồng cười nói, tôi như quên đi ngoài kia chiến trường đang đẫm máu. Ðịch lại tập trung quân tiến đánh vào pháo chúng tôi với mức độ kinh hoàng, ngày ngày tôi di chuyển pháo liên tục để tránh pháo địch. Hầm chỉ huy của Ðại Tá Luật, vị Tư Lệnh Chiến Trường tài ba lỗi lạc của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị pháo sập, ông bị thương và rời khỏi trận địa.

Dưới áp lực nặng nề của Bắc quân, quân ta vẫn kiên cường giữ vững phòng tuyến. Thế nhưng, không hiểu dưới áp lực nào, Chuẩn Tướng Giai Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh ra lệnh rút bó Quảng Trị, và sẽ chịu trách nhiệm trước lịch sử.

Lạnh lùng và ngậm ngùi tôi bỏ lựu đạn chảy, loại lựu đạn nóng 2000 dộ, làm chảy 48 đường khương tuyến của nòng Ðại bác để không xử dụng được vào nòng súng, những khẩu Ðại Bác đã theo tôi suốt 3 Tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Tín, và đã một thời làm khiếp đảm quân thù. Giờ chỉ còn là khối sắt vụn. Ðể lại chiến trường tất cả quân dụng. Pháo đội của tôi, dưới con pháo triên miên của địch. Với cái đói, cái khát dìu nhau rời khỏi trận địa. Trong binh thư thế lui binh, khó và gian nan nhất. Quả vậy!

Giặc đã tràn vào chiếm Cổ thanh Quảng Trị, dân chúng không muốn sống với giặc đã gồng gánh ra đi. Cộng quân pháo liên tục trên Quốc lộ I tạo nên một đại lộ kinh hoàng và đã biết bao nhiêu người nằm xuống nơi đây.

Cuối cùng tôi đưa được Pháo đội về tập trung tai Phú Văn Lâu. Tôi thẫn thờ nhìn dòng sông Hương vẫn lững lờ trôi theo năm tháng, người ra đi, bại trận trở về đây.
    Mưa bay bay, mưa vẫn bay bay
    Hồn tôi giá lạnh ở phương này
    Chiến trường đẫm máu muôn thây ngã
    Gió lạnh chiều nay, buốt vai gầy.
Houston TX tháng 3-2008
Lê Hoàng Lương

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Và Chiến Sĩ Công Binh Miền Trung - Phạm Phong Dinh


Phạm Phong Dinh

Công Binh Việt Nam là một trong những binh chủng có tổ chức qui mô nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với quân số trong khoảng 40,000 quân nhân và công chức. Ðược chính thức thành lập từ ngày 1.8.1955, binh chủng Công Binh Việt Nam đã đóng góp vào cuộc chiến đấu chống cộng sản Bắc Việt xâm lược bằng những chiến công thật âm thầm nhưng rất quyết định. Là một đơn vị yểm trợ, nhưng người lính Công Binh đã gánh vác hai nhiệm vụ lớn, mà nhiệm vụ nào cũng đổ nhiều mồ hôi và máu đào.

Thứ nhất, trong công tác chuyên môn, những Tiểu Ðoàn Công Binh Kiến Tạo đã xây dựng nhiều cầu, đường, công sự, phi trường, hải cảng, trai gia binh, công xưởng, v.v.. Khó có thể kể hết những công trình từ một chiếc hầm cho đến những chiếc cầu dài hàng trăm thước hay những công xưởng to lớn trên khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Nếu người lính tác chiến tận lực đánh địch trên khắp mặt trận gian khổ như thế nào, thì người lính Công Binh cũng sát cánh yểm trợ quân bạn để đạt được chiến thắng với những công tác nặng nề và đòi hỏi nhiều hy sinh không kém. Những căn cứ hỏa lực ngay từ những ngày đầu xây dựng đã có mặt những chiến sĩ Công Binh nhảy xuống, gánh chịu cùng một lần nỗi chết chóc của chiến tranh với người lính Bộ Binh, để cấp tốc thiết lập những hệ thống hầm hố, công sự, bộ chỉ huy, chu vi phòng thủ, mìn bẫy cho quân bạn có nơi trú ẩn và chiến đấu được ngay.

Thứ hai, vừa chiến đấu vừa xây dựng là nhiệm vụ của những đơn vị Công Binh Chiến Ðấu. Những người lính Công Binh chuyên nghiệp vừa phải thực hiện những công trình cấp thời ngay giữa chiến trường hay ở một nơi hoang vu hẻo lánh nào đó, vừa phải chia thân cầm súng đánh địch. Các anh hoàn thành công tác của mình dưới những áp lực nặng nề của địch và luôn luôn phải chiến đấu như là những người lính tác chiến. Còn nhớ những ngày Mậu Thân binh lửa ngoài Huế, Ðại Ðội 1 Trinh Sát của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh phải di tản vào cùng trú ẩn trong một căn cứ nhỏ của một đơn vị Công Binh Việt Nam Cộng Hòa. Trong những ngày đầu chiến cuộc, nhiều đơn vị tác chiến chuyên nghiệp của quân ta đã phải rút bỏ một số vị trí, nhưng căn cứ Công Binh ở Huế đã anh dũng chống trả và đã đứng vững trong suốt 25 ngày đêm lửa đỏ, và là nơi mà các chiến sĩ Trinh Sát Sư Ðoàn 1 Bộ Binh xông ra ngoài mở những cuộc đột kích phản công vào quân cộng.

Lam Sơn 719, những chiếc xe ủi đất của Công Binh chính là đơn vị đầu tiên cùng Nhảy Dù và Kỵ Binh vượt biên giới, để khai thông con đường số 9 đã bị bỏ hoang nhiều chục năm. Những chiếc bulldozer lầm lì húc qua những đoạn đường đèo quanh co và hiểm trở, xuyên thủng những cánh rừng già thâm u chưa từng thấy vết chân người. Mỗi một thước đất Tây tiến là mỗi sự chết chóc chực chờ giáng xuống. Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972, trong lúc nhiều đơn vị Bộ Binh ở Quảng Trị buộc phải triệt thoái về Huế, thì chính những chiến sĩ Công Binh là người phải rút sau cùng, vì các anh còn phải phá hủy những chiếc cầu chiến lược để ngăn chận hay ít nhất làm chậm lại tốc độ tiến quân của quân giặc, dưới những cơn bão pháo kinh hoàng. Không ai bảo vệ người lính Công Binh trong những tình thế nguy nan và bối rối như thế , ngoài chính những khẩu súng M16 khiêm tốn của các anh. Ngày 16.9.1972, khi những Lá Cờ Vàng Ðại Nghĩa Việt Nam bay phấp phới trên bốn mặt Cổ Thành Ðinh Công Tráng, thì ít ai biết được đóng góp của binh chủng Công Binh đã yểm trợ tận lực cho quân bạn đến như thế nào để giành lấy vinh quang chung.

LIÊN ÐOÀN 20 CÔNG BINH CHIẾN ÐẤU VÀ CÂY CẦU ÐÀ RẰNG

Từ Nha Trang theo đường bộ ra đến địa giới tỉnh Phú Yên, sắp sửa vào tỉnh lỵ Tuy Hòa từ năm 1970 trở về trước, những loại công xa, quân xa hay xe dân sự đều vướng phải cây cầu Ðà Rằng nhõ hẹp, cũ kỹ và một chiều, phải mất rất nhiều thời gian chờ đợi để được người lính gác cầu phất cờ hiệu cho qua. Nhưng kể từ ngày 13.2.1971, tình trạng ứ đọng đầy phiền toái đó đã hoàn toàn chấm hết. Với quyết tâm tặng cho đồng bào và chiến hữu miền duyên hải Quân Khu II một món quà thật quí giá, thúc đẩy lưu lượng giao thông kinh tế, cũng như để đưa tốc độ hành quân bộ của quân ta vào mặt trận Nam và Bắc Phú Yên được nhanh chóng hơn, Liên Ðoàn 20 Công Binh Chiến Ðấu lập đề án và khởi công xây dựng cây cầu Ðà Rằng lịch sử.

Ðứng giữa khán đài tràn ngập màu Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ và một rừng biểu ngữ, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đứng trên khán đài đã tươi cười nói với gần mười ngàn đồng bào:

- Bây giờ đồng bào hãy cùng tôi hoan hô Công Binh Việt Nam.

Vị nguyên thủ quốc gia đưa tay cao lên hô lớn:

- Hoan hô Cộng Binh Việt Nam ! Hoan hô Tiểu Ðoàn 201 Công Binh Chiến Ðấu!

Hàng chục ngàn cánh tay của người dân Phú Yên đã cùng đưa lên và cùng cất tiếng ngợi ca công trình của người lính Liên Ðoàn 20 Công Binh Chiến Ðấu. Tiếng hoan hô vang dậy trong một nỗi hân hoan khôn tả, dưới ánh nắng mai ấm áp của một ngày mùa xuân. Ðó là quang cảnh buổi lễ khánh thành chiếc cầu Ðà Rằng tại Tuy Hòa ngày 13.2.1971 dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, cùng sự hiện diện của phu nhân Tổng Thống, ông Chủ Tịch Hạ Viện Nguyễn Bá Lương, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, nhiều Tổng Trưởng và tướng lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Ðồng Minh. Sau khi cắt băng khánh thành, Tổng Thống Thiệu và phái đoàn cùng đi bộ trên cây cầu mà chính ông đã thốt lời khen ngợi :

- Cây cầu dài nhất Việt Nam! Ðẹp nhất Việt Nam! Lần đầu tiên do chính Công Binh Việt Nam thực hiện.

Cũng như khi tâm tình với đồng bào Phú Yên, Tổng Thống Thiệu đã đưa ra một so sánh:

- Nếu đồng bào chưa có dịp đi qua xa lộ Sài Gòn Biên Hòa, chưa biết cầu xa lộ, thì đây chính là xa lộ. Nhưng cây cầu Ðà Rằng này còn dài hơn, đẹp hơn cầu xa lộ.

Ở trong giai đoạn mà cuộc chiến tranh xâm lược và phá hoại của cộng sản Bắc Việt và Việt cộng Miền Nam đã đang đi dần lên đến điểm khốc liệt, một quân đội mà tài sản nghèo nàn như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, việc xây dựng được một chiếc cầu tình nghĩa như vậy đã là một nỗ lực tận tụy của ngườ lính Công Binh Việt Nam. Nếu là thời bình, thì Việt Nam Cộng Hòa còn có thể xây được nhiều công trình huy hoàng và to lớn hơn chiếc cầu Ðà Rằng thập bội. Xây dựng đã khó mà giữ được cây cầu càng khó khăn gấp mấy lần. Việt cộng với những nỗi căm thù điên cuồng, chúng không bao giờ có thể chịu đựng được niềm hạnh phúc sung sướng của dân chúng khi thoải mái qua lại trên những chiếc cầu thân thương do Công Binh Việt Nam xây nên thành. Hạnh phúc của đồng bào là sự nhức buốt căm hận của quân cộng sản, nên bằng bất cứ giá nào chúng cũng phải giật sập những công trình ấy. Ðồng bào có đau khổ, chật vật thì cộng sản mới có thể hê hả thú tính man rợ của chúng.

Cầu Ðà Rằng được coi là tối tân nhất Việt Nam ở thời điểm đó, nằm trong quận Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, dài 1,101 thước do Tiểu Ðoàn 201 thuộc Liên Ðoàn 20 Công Binh Chiến Ðấu đảm trách. Cầu Ðà Rằng nằm cách thành phố Tuy Hòa 3 cây số về hướng Ðông Nam, bắc ngang qua con sông Ðà Rằng, dưới chân ngọn núi Tháp Nhạn và chạy song song với cây cầu sắt cũ. Ngược dòng Ðà Rằng lên đến địa giới tỉnh Phú Bổn, con sông dài và rộng mênh mang này sẽ tiếp giáp với con sông Ba từ dãy Trường Sơn đổ xuống. Những ngày tháng 3.1975, hai con sông này đã ngậm ngùi chứng kiến cuộc triệt thoái của Quân Ðoàn II và đồng bào chạy trốn hiểm họa cộng sản trên con đường Liên Tỉnh Lộ 7B Pleiku ố Phú Bổn ố Phú Yên. Hàng ngàn xác đồng bào đã nằm chết trên con đường tang thương này và trôi dật dờ ai oán trên giòng sông Ba ố Ðà Rằng, nhờ ơn giải phóng của cộng sản. Nhân loại thuộc thế giới tự do, dù có mù lòa giả đui giả điếc đến mấy đi nữa cũng đã đau xót kêu lên kinh hoàng với những hình ảnh còn chập chờn của Ðại Lộ Kinh Hoàng Quốc Lộ 1, Ðại Lộ Máu Quốc Lộ 13 năm 1972, và giờ đây thêm con lộ 7B ngập ngụa xương thịt của người dân vô tội. Truyền thông báo chí ngoại quốc đã công nhận gọi cuộc trốn chạy của dân chúng Quân Khu II, rồi Quân Khu I tiếp theo sau là “Cuộc Bỏ Phiếu Bằng Chân Của Dân Chúng Dành Cho Việt Nam Cộng Hòa”. Không còn từ ngữ nào chính xác hơn thế.

Cầu Ðà Rằng được thiết kế 59 nhịp với 58 trụ chống trung gian. Lòng cầu rộng 7m 50, lề bộ hành hai bên rộng 0m 90. Sức chịu đựng của cầu trong khoảng 35 đến 50 tấn và lưu thông hai chiều. Trung Tá Lê Văn Lầu, quyền Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 20 Công Binh Chiến Ðấu, dáng người dong dỏng cao, nổi tiếng là một vị chỉ huy năng nổ, ưa hoạt động, ẩn tàng một ý chí mạnh mẽ dưới mái tóc hoa râm vì tuổi đời, mà cũng vì nắng gió công trường trong suốt cuộc đời Công Binh chuyên nghiệp của ông, đã trả lời với báo chí về những chi tiết kỹ thuật của cầu Ðà Rằng: Cầu này có 59 nhịp, trong đó có 52 nhịp mỗi nhịp dài 18 mét và 7 nhịp dài 21 mét. Cứ mỗi nhịp có từ 5 đến 6 đà dọc. Riêng 58 trụ trung gian được kiến tạo bằng cừ sắt H với mũ đầu trụ bằng bê tông cốt sắt. Mỗi trụ trung gian gồm 6 cây cừ đóng thẳng và 4 cừ đóng xiên. Theo địa thế, cừ được đóng sâu vào lòng đất từ 18 đến 21thước.

Nhưng để cảm thông hơn với những khó khăn và quyết tâm của người lính Công Binh, Trung Tá Lầu đã hướng dẫn báo chí đến gặp người hùng kiến tạo cây cầu: Thiếu Tá Hà Thúc Xáng, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 201 Công Binh Chiến Ðấu. Cũng giống như “ông thầy” Trung Tá Lầu của mình, Thiếu Tá Xáng với màu da sạm nắng màu đồng nung, đã kể lại những khó khăn mà Tiểu Ðoàn 201 Công Binh đã “đụng” phải trong thời gian thực hiện cầu.

Ðó là vấn đề tiếp liệu, đặc biệt là nhu cầu về những đà sắt lớn: Ở Việt Nam không có loại đà dài thích hợp cho các nhịp cầu 18 và 21 thước. Do đó, Công Binh Việt Nam đã phải tự hàn nối những đà cầu ngắn thành đà cầu có đủ chiều dài cần thiết. Công tác này phải sử dụng loại cơ giới đặc biệt như máy hàn tự động để thực hiện những mối hàn.

Ðáp một câu hỏi là liệu hàn như vậy có chắc chắn như loại nguyên gốc của nó hay không, Thiếu Tá Xáng khẳng định: Không những tinh vi mà còn hoàn toàn bảo đảm, vì mỗi khi hàn xong, các mối hàn đều được kiểm soát bằng máy quang tuyến X.

Ðể xây dựng chiếc cầu Ðà Rằng, Tiểu Ðoàn đã sử dụng đến 280 quân nhân. Ngoài phần quân xa cơ giới, Tiểu Ðoàn còn được Liên Ðoàn tăng cường thêm hai cần trục 40 tấn trang bị máy đóng cừ 3,400 ký và 8,200 ký, 3 cần trục 20 tấn thủy lực, 1 máy trộn hồ tự động loại 3 thước khối, 2 máy hàn điện bán tự động và 6 máy hàn điện. Tiểu Ðoàn 201 Công Binh Chiến Ðấu đã sủ dụng khoảng 15,000 tấn vật liệu nặng, trong đó có 2,000 tấn cừ sắt H loại 14H 73, hơn 1,500 tấn đà loại 36W F 230 và 36W 150, 2,250 tấn xi măng, gần 4,500 mét khối đất, gần 3,000 mét khối cát và 970 tấn sắt tròn. Ðối với Thiếu Tá Hà Thúc Xáng và chiến sĩ Tiểu Ðoàn 201 Công Binh Chiến Ðấu, thì công trình cầu Ðà Rằng không những là chiến công lớn nhất của Tiểu Ðoàn, mà còn là niềm hãnh diện chung của binh chủng Công Binh Việt

Nam. Niềm sung sướng của riêng Thiếu Tá Xáng, đứng từ cương vị một cấp chỉ huy, là trong suốt thời gian công tác, đã không hề có một tai nạn nào xảy đến cho binh sĩ của ông. Ðồng bào địa phương kể lại thời Pháp, khi thực hiện cây cầu sắy cũ có đường cho xe lửa chạy, thì đã có hàng trăm công nhân đã thiệt mạng.

Từ ngày lịch sử 13.2.1971, đồng bào tỉnh Phú Yên và dân chúng toàn quốc đã có thể thoải mái di chuyển trên chiếc cầu Ðà Rằng mới. Cầu Ðà Rằng cũ vẫn còn nằm song song với người bạn mới, và chẳng có gì phải buồn phiền, công lao đóng góp của nó trong hàng chục năm qua đã đủ để nó xứng đáng được nằm nghỉ ngơi và ngắm nhìn người bạn trẻ gánh vác công việc nặng nhọc mà thật nhiều vinh dự . Cũng kể từ ngày này, tấm biển đồng khắc danh hiệu Tiểu Ðoàn 201 Công Binh Chiến Ðấu được hãnh diện gắn vào chiếc cầu, tên tuổi của Trung Tá Lê Văn Lầu, Thiếu Tá Hà Thúc Xáng, Thiếu Tá Hiển, Tiểu Ðoàn Phó cùng tất cả quân nhân của Tiểu Ðoàn sẽ mãi ghi đậm trong ký ức và luôn là một kỷ niệm đẹp trong lòng người dân Phú Yên. Hơn thế nữa, đối với đồng bào Phú Yên, điều làm cho họ vui mừng nhất, phải kể là từ thời điểm đó, hàng năm nếu có lụt lội xảy ra, dân chúng không còn sợ nạn có người bị chết oan khi đi qua cầu bị nước lũ cuốn đi, như đã từng xảy ra trên cây cầu cũ.

CHIẾN SĨ CÔNG BINH Ở BÌNH THUẬN ...

(Lính Công Binh kể chuyện Công Binh, Văn Dỹ)

Mới 5 giờ sáng, anh em tài xế xe trút đã rồ máy ầm ĩ cả một góc trời. Hôm nay họ phải đi làm sớm, đi tận Phan Rang lấy nhựa. Trời Hòa Ða 5 giờ sáng lúc này còn tối, tiết trời lành lạnh, mưa bay lất phất. Mấy ông bạn tài xế lầm lũi làm việc trong bóng đêm. Anh nâng capot kiểm soát mực nước, người mắt hấp háy nhìn thước đo dầu, kẻ đá vào lốp nghe bình bịch, họ kiểm soát bánh xe. Tôi vẫn ngồi gác nhìn trời, nhìn các bạn làm việc. Tôi nghe Trung Sĩ Thạch Sơn hỏi :

- Xong chưa mày, Bảy ? Go chứ ?

- Go thế đếch nào được, mới tối qua khi về mười bánh, sáng nay đã xẹp hai. Phen này đến trả “vô lăng” cho Ðại Ðội Trưởng thôi !

- Ráng lên cưng.

Bảy cười hô hố đáp :

- Ðó là nghề của em mà Trung Sĩ. Nhờ Trung sỉ nói với ông thầy cứ dzọt trước, em thế nào cũng bắt kịp.

Mới sáng tinh sương, đoàn xe trút từ từ ra khỏi trại. Tiếng máy truyền tin 25 sè sè như còn ngái ngủ. Dẫn đầu đoàn là Ðại Ðội Trưởng 604 Xe Trút, đoàn xe từ từ tiến ra cổng chính. Trước ngọn đèn sáng quắc của xe Jeep đã thấy Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Công Trường đứng ở điếm canh tự bao giờ. Ông tốp đoàn xe lại nhỏ to điều gì với trưởng đoàn xe tôi không biết, chỉ thấy khi xe chuyển bánh ông la lớn :

- Thượng lộ bình an nghe bồ ! Ráng về cho đúng giờ.

Tôi thắc mắc hoài không biết hôm nay sao lại phải đi tận Phan Rang lấy nhựa, mọi khi công trường vẫn lấy tại Vĩnh Hảo. Tôi mon men lại hỏi Chuẩn Úy Tám Ban 3 :

- Chuẩn Úy, mình trải nhựa hôm nay à ?

- Ừ.

- Mà sao phải đi tận Phan Rang lấy nhựa ?

- Thế mày không biết hôm nay Tổng Thống đến thăm công trường mình à ? Thiếu Tá muốn biểu diễn một đường lả lướt trải nhựa cho Tổng Thống coi, máy nhựa Vĩnh Hảo hư rồi.

Tổng Thống đến ! Tổng Thống đến thăm công trường mình. Tôi băn khoăn đứng ngồi không yên, từ sáng đến giờ tôi viện cớ đi tiểu mấy lần, vì mỗi lần đi tiểu tôi lại có dịp ghé qua Ban 5. Họ đang làm việc nhộn nhịp, kẻ viết băng đơ rôn, người hí hoáy vẽ. Tôi liếc nhanh, thấy một biểu ngữ đỏ chót trên nền vải trắng: “CÔNG BINH VIỆT NAM CHÀO MỪNG TỔNG THỐNG”. Bạn Lễ “gà mờ “ đang cong lưng kẻ mấy bảng xanh xanh đỏ đỏ cho bên quận. Trung Sĩ Trung đang cẩn thận lau chùi chiếc máy hình Topcon của đơn vị. Hôm nay Trung Sĩ phó nhòm lại có dịp nháy lia lịa. Tôi hỏi Trung Sĩ Trung :

- Tổng Thống có đến Bộ Chỉ Huy công trường không Trung sĩ ?

- Không, Thiếu Tá thuyết trình tại công trường.

- Em muốn ra ngoài ấy coi quá.

- Mày có ở ban tiếp tân không ? Mày là chuyên viên khui chai mà. Hôm nay tao không biết có vụ giải lao bằng “Coke” Giao Chỉ không, nếu có hy vọng đấy em. Ðến 1 giờ Thường Vụ sắp xếp sẽ biết.

Ngoài sân cờ, Chương “kèn” cùng anh em ban Quân Nhạc Tiểu Ðoàn đang dợt lại mấy bài Thượng Cấp Văn, Thượng Cấp Võ. Ban nhạc này tuy đơn sơ, thế mà đắt hàng đáo để. Nào chào Tướng Ba Sao, Tướng Hai Sao, hôm nay hy vọng được chào cả Tổng Thống. Trung Ðoàn 44 Bộ Binh và bốn quận miền Bắc Bình Thuận mỗi khi có quan khách tới chạy bấn xúc xích cả lên để nhờ Chương kèn lo giùm. Trông bộ vó Chương kèn cũng không kém gì những ông nhạc trưởng cầm cái ba toong tổ bố, quăng lên quăng xuống khi diễn hành trong những ngày Quốc Khánh, mà tôi từng say mê chạy theo lúc còn bé. Nhưng Chương kèn của Tiểu Ðoàn chúng tôi chỉ khác có một cái là chỉ huy có 8 quân nhân, gồm có 4 kèn, 2 trống cơm ,1 trống cái và1 chóe, thế mà xôm đáo để. Ngày thường mấy bạn nầy đều có nghề riêng. Anh hớt tóc, anh chuyên viên trùng tu, người chuyên viên ủi đất. Riêng Chương kèn có nghề hộ tống, vì ngoài nghề kèn, anh còn có nghề võ Bình Ðịnh và bắn thần tốc.

Tôi mãi mê coi anh em Ban 5 làm việc đến giờ cơm lúc nào không biết. Vẫn như thường lệ, cá nục kho tiêu làm chuẩn, canh rau muống tôm khô thêm ít ớt làm đích. Tôi và ào ba chén cơm rồi chuồn ra phố quận. Hòa Ða hôm nay có bộ mặt mới, chỗ nào cũng thấy cờ. Cờ sơn trên tường, cờ treo trước ngõ, cờ dọc hai bên lộ, cờ bay khắp nơi, phần phật trước gió. Những cô nữ cán bộ Xây Dựng Nông Thôn gọn ghẽ trong bộ đồ đen, hàng ngũ chỉnh tề. Những cậu Nhân Dân Tự Vệ vai vác “Sào đuổi vịt” (Garant M1) súng sính trong bộ đồ nâu đang dợt lại thế súng chào. Mấy anh được chỉ định cầm cờ đoàn, cờ đội. Hòa Ða ngày thường cũng buồn tênh như trăm ngàn quận nhỏ khác, nhưng ở đây được tô điểm thêm bởi những cô gái Chàm, nước da đậm đà, tiếng nói ríu rít như chim hót, và những nàng nữ sinh áo trắng. Ngày chúng tôi mới đến, những cô nữ sinh trung học hay trêu chúng tôi lắm. Hai chữ Công Binh CB các cô dịch đũ nghĩa, nào là “Còn Bé ”. Có cô tinh nghịch hơn kêu chúng tôi là “Còn Bú “.Mấy bạn Nghĩa Quân thì gọi chúng tôi là “Cao Bồi”. Huy hiệu Công Binh đeo trên vai có cái hình hơi giống cổng... chùa, đồng bào gọi chúng tôi là Lính Chùa. Mấy ông già bà lão thường nói: Lính Chùa nó làm việc dữ quá, không nghỉ trưa làng nước ơi ! Tụi nó có những cái máy gì bự quá, ủi một cái là văng ngay gốc me năm người ôm trên Chợ lầu. Còn cái xe cạp gì mà to quá cỡ, nó chạy nghe ầm ầm, đi đến đâu nghe hết hồn. Thế mà người Việt Nam mình lái mới hay chứ !

Còn nhiều chuyện rất dí dỏm ở cái quận lẻ này. Tôi đang mãi nghĩ thì gặp thằng Hào, nó hất hàm bảo tôi:

- Không về à, đến giớ tập họp rồi.

Chà, thế mà đã 12 giờ 45, chúng tôi chỉ nghĩ trưa có một tiếng. Công trường mà.

Như thường lệ, Thường Vụ cắt đặt mọi việc thường ngày. Riêng tôi và hai ông bạn ở kho cơ phận được sung vào ban tiếp tân phái đoàn thượng cấp. Thế là giấc mơ của tôi đã thành. Tôi sẽ hân hạnh khui chai nước ngọt mời tận tay Tổng Thống. Tôi sẽ cẩn thận lo đồ khui cho sạch, thủ sẵn miếng gạc trắng tinh để lau vỏ chai cho kỹ. Vừa tan hàng xong, tôi và hai thằng bạn trong ban tiếp tân còn đang lớ ngớ lo xe và đồ nghề ra công trường thì gặp Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng, ông hỏi :

- Mấy chú ban tiếp tân à ?

Ông nhìn tôi từ đầu tới chân không nói gì. Ông khựng lại ở hai ông bạn vàng của tôi, tôi run quá, biết là có chuyện rồi.

- Mấy chú bỏ nón ra, kêu Ðại Ðội Trưởng lên đây !

Tôi lí nhí dạ trong họng rồi chạy đi kêu Trung Úy Ðại Ðội Trưởng. Phen này là có chuyện rồi. Y như rằng, Trung Úy mới giơ tay chào đã bị quạt ngay :

- Ông định biểu diễn mấy cái tóc này cho Tổng Thống coi à ? Tôi đã nhắc ông nhiều lần, hàng tuần sau khi chào cờ thì khám tóc tai, quần áo, bạn nào cảnh cáo nhiều lần không nghe thì mang tông đơ tới. Ông làm sao hôm nay trông được thì làm.

Nói xong ông lên xe đi mất. Thế là hai ông bạn vàng của tôi được thay thế bằng hai ông khác có quần áo và tóc tai chỉnh tề hơn. Cầu 27 hôm nay được quét dọn sạch sẽ hơn, bản thuyết trình đặt ngay tại đầu cầu, bên kia cầu là toán trải nhựa. Họ đang sửa soạn lại cơ giới, máy hâm nóng nhựa đã bốc khói, nhựa đã về ... Ðúng 15 giờ, ở phía Ðông một đoàn trực thăng ầm ầm bay đến. Máy bay đâu mà lắm thế, có đến trên 15 chiếc hạ ngay trước sân vận động, đậu dài trên đoạn đường mới làm của chúng tôi. Tiếng hoan hô Tổng Thống vang dậy một góc trời, đồng bào hân hoan chào mừng Tổng Thống. Theo chương trình, Tổng Thống sẽ nói chuyện với đồng bào quận Hòa Ða rồi mới đi thăm công trường của chúng tôi. Từ xa, một đoàn xe Jeep từ từ tiến lại, di chuyển trên đoạn đường mới làm của Công Binh. Không biết Tổng Thống nghĩ về về tác phẫm của chúng tôi, nhưng anh em chúng tôi hãnh diện lắm. Tôi sẽ nói với con cháu rằng: “Ðoạn đường Phan Rí là do tao làm“.Tôi nghe tiếng Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng hô lớn:

- Tổng Thống đến. Nghiêm.

Tôi đứng ngay ngắn nhìn Tổng Thống. Hôm nay ông mặc bộ đồ xanh nhạt, tươi cười bước xuống xe bắt tay từng vị chỉ huy. Thằng bạn thích cùi chỏ vào ba sườn tôi :

- Khui chứ mày ?

Tôi vội vàng làm công việc của tôi, cẩn thận khui chai nước ngọt, lấy miếng gạc trắng lau đầu chai sạch sẽ, dự định đưa mời Tổng Thống. Một Trung Tá trong phái đoàn tiến đến trước chúng tôi nói

- Thôi em, Tổng Thống và các quan khách không uống đâu.

Ở đầu kia tiếng nói vang dội của Thiếu Tá tiểu Ðoàn Trưởng đang thuyết trình tiến triễn công trường, tay cầm micro, tay cầm gậy chỉ trỏ trên những tấm biểu đồ chạy dọc chạy ngang trông đến dẹp mắt. Tổng Thống gật đầu tủm tỉm cười, các quan khách ai cũng lộ vẻ hân hoan hãnh diện. Sau phần thuyết trình, tôi không biết Tổng Thống hỏi gì, nhưng nghe lời đáp của Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng trong micro : ‘ Kính thưa Tổng Thống, chúng tôi không thua họ về kỹ thuật làm đường, làm cầu. Trái lại chúng tôi còn bỏ xa họ, chúng tôi chỉ thua họ về cơ giới và đời sống vật chất hàng ngày mà thôi, nhưng chúng tôi chịu đựng được, mặc dầu phải vác đá dầm mưa để kiến thiết quê hương.

À, thì ra Tổng Thống so sánh kỹ thuật làm đường, cầu của Công Binh Việt Nam với Công Binh Hoa Kỳ. Sau đó Tổng Thống gọi sĩ quan tùy viên lại nói :

- Anh em làm cực quá, cho anh em ít tiền chứ. Hai trăm ngàn.

Thế là chúng tôi sẽ có tiền liên hoan trong dịp Tết. Tôi còn đang đứng lớ ngớ trước mấy chai Coca Cola khui rồi thì Tổng Thống tiến lại trước mặt tôi và nói :

- Cám ơn em.

Tổng Thống đưa tay cho tôi bắt. Tôi bắt tay Tổng Thống mà lòng rộn lên. Tôi, Binh Nhì Công Binh được bắt tay Tổng Thống.

Phạm Phong Dinh
(sưu tập và biên soạn)



Thương Nhớ Anh: Những Người Lính Bất Hạnh


THÁNG TƯ ÐEN MẤT NƯỚC
THƯƠNG NHỚ ANH: NGƯỜI LÍNH BẤT HẠNH VNCH

Mường Giang

Hai mươi năm chinh chiến, người Lính VNCH đã có 250.000 gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Hiện nay Chính Phủ cũng như QLVNCH không còn nửa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính , càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.

Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ , xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.

Thế chiến 2 kết thúc, Tòa Án quốc tế Nuremburg, chỉ kết tội những Ðầu Sỏ trong phe Trục, mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật.. Năm 1920, Lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta, bị người Ý bắt và tử hình. Nhưng chính Tổng Tư Lệnh Ý tại Bắc Phi , là người đã ở lại pháp trường, để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.

Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.. đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp, tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50.000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu, bên cạnh ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.

Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cọng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cọng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hien diện của người lính Miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia, nhờ che chở đùm bọc.

Ai đã từng là người lính tác chiến Nhảy Dù, TQLC, Biệt Kích, BÐQ, Bộ Binh, ÐPQ, NQ hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội, Cán Bộ Xã Ấp, CS Dã Chiến.. mới biết được thế nào là nổi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt mà người dân tay không phải hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho cảnh ba đồng, ba cộc, của kiếp lính Miền Nam.

Trong nổi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.

Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cọng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cọng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng, công khai bán nước cho Tàu Ðỏ mà hiện nay cả thế giới đều biết. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bảo, chính sự khoắc lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cọng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.

Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế ’giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng.

Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân, qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.

"... ngày xưa làm cầu cho người qua sông
làm súng để người tranh quyền đoạt lợi
làm bia hứng lảnh mọi đạn thù
nay người lính nằm chết bên vệ đường ..."

NGƯỜI LÍNH VNCH BỊ TRÍ THỨC THIÊN TẢ ÐÂM SAU LƯNG

Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cọng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn.

Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình, đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất và thời gian để đâm thọt, phá hoại.

Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cọng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.

Chính bọn trí thức thiên tả này, đã lợi dụng tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tien tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.

MỸ BÁN ÐỨNG VNCH CHO CỌNG SẢN

Bắt đầu từ ngày 13-5-1968, Mỹ và Bắc Việt đã lén lút đi đêm với nhau tại Paris, để tìm cách đổi chác trên thân xác của VNCH. Nhưng kẻ cắp gặp bà già, nên dù hằng tuần có gặp nhau, Kissinger và Lê Ðức Thọ vẫn không đạt được một thỏa thuận nào. Theo tiết lộ mới đây của Kissinger, trong hồi ký "The Kissinger Transcripts", trong đó đã ghi chép đầy đủ về mọi mánh lới, thủ thuật của Mỹ để ve vãn Trung Cộng, chống lại Liên Xô vào tháng 1-1972. Cũng theo sách dẫn chứng trên, thì Kissinger đã làm đủ mọi thủ đoạn, để đạt cho được mục đích. Trong cuộc, VNCH là con vật tế thần, mà cặp Nixon và Kissinger đã xử dụng, nên cuối cùng dẫn tới sự chấp nhận những điều kiện phi lý, mà Hoa Kỳ dùng bùa viện trợ, ép buộc VNCH phải ký kết trong bản hiệp định ngưng bắn năm 1973.

Riêng đối với Bắc Việt, mặt thật cũng đâu có hãnh diện gì hơn VNCH, trong cuơng vị làm đầy tớ Nga-Tàu. Bởi vậy, khi Liên Xô thấy Mỹ và Trung Cộng đã liên kết với nhau, chắc chắn Tàu Cộng sẽ theo Mỹ, bắt VC ngưng bắn có điều kiện. Bởi vậy, một mặt LX viện trợ tối đa cho Hà Nội, đồng thời ra lệnh cho VC mở hết mặt trận này tới chiến dịch khác, mà lần cuối cùng là ngày quốc hận 30-4-1975, đưa cả nước VN trong ba mươi bốn năm đắm chìm trong cảnh nghèo đói, lầm than, hận thù vì vũng bùn ô uế của cái gọi là thiên đàng xã hội chủ nghĩa.

Người Mỹ đã ký kết hiệp định ngưng bắn Ba Lê, chỉ với mục đích rút quân và đem tù binh về nước, để Nixon đắc cử thêm một nhiệm kỳ tổng thống Mỹ và Kissinger tiếp tục giữ chức lớn trong chính quyền Hoa Kỳ. Ngoài mục đích trên, người Mỹ không cần đếm xỉa gì tới tương lai cũng như số phận của người Việt, nước Việt.

Sau này, khi VNCH đã sụp đổ, nhiều nhân vật quốc tế liên quan tới cuộc chiến VN, đều phê bình sự tắc trách của Hoa Kỳ, khi dựng lên cái quái thai hiệp định ngưng bắn, để bán đứng đồng minh của mình. Chính TT. Nixon cũng đã xác nhận lỗi lầm của mình trong tác phẩm ‘ No More VietNam’ rằng tôi đã thấy những vấn đề nan giải của hiệp định Ba Lê nhưng quan trọng nhất trong thỏa ứơc này là đã không bắt buộc Hà Nội rút hết bộ đội đã xâm nhập về Bắc. Còn M. Gauvin , đại sứ Canada tại Hy Lap, nguyên chủ tịch uỷ hội kiểm soát quốc tế (CICCS) tại VN, đã tuyên bố "VNCH bi sụp đổ hoàn toàn do quyết tâm bỏ rơi của Hoa Kỳ. Riêng cái hiệp định ngưng bắn ký kết tại Ba Lê năm 1973, đã không phản ảnh được ý muốn và nguyện vọng của người dân Miền Nam, là muốn sống hòa bình và không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa cọng sản, nên ngay từ năm 1954, họ đã phải bỏ miền bắc để vào Nam, chạy trốn VC".

Nhưng phê bình một cách thẳng thắn, là Sir R.Thompson "Sự sống còn của Nam VN, đã bị người Mỹ tước đoạt hay nói thẳng là bán đứng. Có làm như vậy, Hoa Kỳ mới tránh cho nước mình khỏi bị sâu xé tan nát. Một điều nghịch lý khác là cọng sản Bắc Việt, bị bó buộc tới bàn hội nghị, không phải để cứu họ, mà là cứu nước Mỹ. Nên dĩ nhiên Mỹ phải đem đồng minh VNCH ra bán đứng, để đền ơn cứu mạng".

Ngoài vấn đề phủi tay tại Nam VN sau khi đã đem được tù binh và hài cốt quân Mỹ về, quốc hội Hoa Kỳ còn bội ước, khi liên tục biểu quyết các đạo luật ngăn cấm can thiệp bằng quân sự của Mỹ tại Nam VN, cắt giảm dần quân viện, không chịu hoán đổi quân trang quân dụng, như các thỏa ước đã ký kết . Sự bất công vô lý, đến đổi Tuỳ Viên Quân Sự (DAO), tại Nam VN, đã phải viết ‘ Người Lính VNCH do đó, đã phải chấp nhận sống với những nhu cầu, dưới mức bình thường, làm cho tinh thần người chiến sĩ xuống thấp, vì bị hạn chế các phương tiên ngăn chống giặc ‘.Chỉ có Robert S McNamara, cựu bộ trưởng quốc phòng thời TT.John Kenedy, thì vẫn ngoan cố để chạy tội, quên hết trách nhiệm của mình, trong tác phẩm "In Retrospect: The Tragedy and Lessons Of VN", bêu xấu và đổ hết trách nhiệm làm mất nước cho QLVNCH.

Sự thật, khi viết về Quân Lực VNCH, hầu hết các nhà quân sử trên thế giới cũng như các Sử Gia hiện tại của VN như Nguyễn Khắc Ngữ, Chánh Ðao, Phan Nhật Nam, Phạm Huấn, Nguyễn Ðức Phương, Phạm Phong Dinh, Trần Gia Phụng, Nguyễn Lý Tưởng ... đều đứng chung trên quan điểm ca tụng tinh thần hy sinh và trách nhiệm của người lính VNCH, đối với đất nước và đồng bào. Nhờ thiện chiến, có kỷ luật nghiêm minh, biết bổn phận, nên trong suốt cuộc chiến hai mươi năm, dù lúc nào VNCH cũng bị Bắc Việt tấn công lén như Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè 1972.. nhưng Họ đã can trường lật ngược hoàn cảnh, để chuyển thắng thành bại. Hầu hết lính và các cấp chỉ huy ngoài chiến trường, đã quyết tử trong giờ thứ 25, tới khi được lệnh bắt buông súng của TT Dương Văn Minh, mới chịu rã ngũ.

Mới đây có nhiều tác phẩm được công bố như The Pategon Papers, Fires In The Lake của Frances Fitzgeral, The Best and The Brightest của Halberstam và nhất là các hồi ký của Kissinger.. đều cho thấy từ khởi đầu cuộc chiền, đến khi tàn cuộc, Hoa Kỳ luôn luôn là đạo diễn chính trong thảm kịch VN. Trong lúc cộng sản Bắc Việt, được Tập Ðoàn Cộng Sản Quốc Tế cả Liên Hiệp Quốc, viện trợ quân sự thả dàn, thì QLVNCH bị Mỹ qua Viện Trợ, chèn ép bắt bó tay, nên phải chiến đấu trong nghiệt ngã để sinh tồn.

Theo Harry H Noyes qua tác phẩm "Herdic Allies", với tư cach là một sĩ quan cao cấp của Mỹ, đã chiến đấu nhiều năm ngoài mặt trận bên cạnh QLVNCH, nên đã có những nhận định rất thẳng thắn, trái ngược với mồm mép mệng lưỡi bọn nhà báo và chính trị con buôn Mỹ và tây phương. Theo tác giả trên, thì thái độ bêu xấu hay bóp méo sự thật, nhắm vào QLVNCH, chẳng qua chỉ là sự kỳ thị chủng tộc thường thấy của bọn da trắng, lúc nào cũng tự xem mình là văn minh, đứng trên các dân tộc khác. Một điều quan trọng khác, là suốt cuộc chiến đẫm máu tại Nam VN, đa số dân tây phương và Hoa Kỳ, đã bị điệp viên của khối cọng sản, củng như KGB của Liên Xô, mua chuộc hay tuyên truyền. Do đó lúc nào họ cũng có cảm tình với Bắc Việt, nên cứ bóp méo sự thật, để khinh bỉ VNCH.

Bảo rằng QLVNCH không chịu chiến đấu, trốn trách nhiệm, chỉ muốn khoán trắng cho quân đội Mỹ, kể cả sự oanh tạc Miền Bắc, là một ngang ngược và phi lý. Ðể trả lời, nhiều người đã hỏi ngược lại người Mỹ rằng "vậy thì từ năm 1955-1965 và cuối năm 1971-4/1975, khoảng thời gian đó, người Mỹ hoặc chưa tới hay đã rời VN, vậy ai đã chiến đấu với bộ đội Bắc Việt ?" Còn về vấn đề oanh tạc Miền Bắc, từ đầu tới cuối có khi nào Hoa Kỳ giao trách nhiệm cho Không Quân VNCH, cũng như chịu cung cấp cho họ các loại phi cơ chiến đấu tối tân, để chiến đấu cho có hiệu quả. Một bí mật khác, là người Mỹ dành độc quyền oanh tạc Miền Bắc, để thi hành lệnh của Hoa Thịnh Ðốn, là đem gần hết số bom đổ xuống biển hay núi rừng không phải là mục tiêu quân sự cần tiêu diệt. Bởi vậy làm sao dám giao nhiệm cho KQ.VNCH ?

Còn trong thời gian Mỹ tham chiến tại VN, mở các cuộc hành quân tiêu diệt cọng sản. Tất cả đều là HÀNH QUÂN HỖN HỢP, giữa quân Ðồng Minh-Hoa Kỳ và VNCH, tiêu biểu như HQ Cedar Faces tại Vùng Tam Giác Sắt (Bình Dương-Hậu Nghĩa), đầu tháng 1-1967, tiếp theo là HQ Toledo, mục đích càn quét Chiến Khu C và Cục R, do Lực Lượng hỗn hợp, gồm Lữ Ðoàn 173 Nhảy Dù-Hoa Kỳ cùng 2 Tiểu Ðoàn 33-35/Biệt Ðộng Quân/VNCH đảm trách. Ðặc biệt tại Ðiện Biên Phủ KHE SANH cuối năm 1967, vẫn có quân VNCH tham dư, đó là TD37 + 21/BDQ, thuộc Liên Ðoàn 1/BDQ của Quân Ðoàn I.

Sau cuộc chiến, để chạy tội bán đứng đồng minh, cũng như phản bội Tổ Quốc và đồng bào mình, Hoa Kỳ và bọn khoa bảng-trí thức thân cộng Miền Nam, những người muôn năm trong dòng sử Việt, được bia đời phong cho danh hiệu là "Ông Bình Vôi". Riêng các lãnh tụ cọng sản như Stalin, Mao Trạch Ðông, kể cả Hồ Chí Minh, coi rẻ hơn CỤC PHÂN NGƯỜI vì suốt kiếp chẳng làm được một điều gì tốt hay ích lợi, để giúp cho đất nước và đồng bào mình, ngoài cái tài khoe bằng cấp tiến sĩ, đốc tờ , đại ký giả.

Sau tháng 5-1975, bọn trí thức này theo chân Người Việt tị nạn khắp các nẻo đường hải ngoại, vẫn sống cao sang quyền thế, van trà trộn trong các Ðại Học, Chùa-Nhà Thờ, Tòa Báo, Ðài Phát Thanh hay trên các trang sách-thơ, vẫn chứng nào tật nấy, không hề thay đổi lương tâm một chút gì, dù phong trần đã nếm, vinh nhục bề bề và trên hết là vẩn bám vào Người Việt Tị Nạn Cộng Sản để mà sinh tồn, dù rằng chúng đã nói là ÐÃ ÐI HẾt BIỂN nhưng lại không dám về sống với Việt Cộng, để hưởng Vinh Hoa Phú Quý, Tự Do Dân Chủ.. trong Xã Nghĩa Thiên Ðàng, như chúng hằng ca tụng. Chính người Mỹ và bọn trí thức-khoa bảng thân cộng này, trước sau vẫn đổ trách nhiệm làm sụp đổ Miền Nam cho các cấp lãnh đạo của VNCH.

Riêng sự bảo rằng VNCH không có lãnh đạo xứng đáng, ngang cơ để đối đầu với cáo già Hồ Chí Minh của Bắc Việt, sau khi TT Ngô Ðình Diệm bị hạ sát vào ngày 1-11-1963, là điều suy nghĩ quá đáng và đâu có khác gì việc Mỹ nói QLVNCH không chiến đấu, mà chỉ giao hết cho quân đội Hoa Kỳ.

Nhưng mai mĩa nhất vẫn là lời xác nhận của Kissinger , khi cho bạch hóa các tài liệu cũ liên quan tới chiến cuộc Ðông Dương lần thứ 2 (1960-1975 ) "Mỹ đã chơi với Trung Cộng từ năm 1972, vậy thì bán Miền Nam VNCH cho Cộng Sản Quốc Tế Bắc Việt, qua Hiệp Ðịnh Paris 1973, cũng đâu có gì lạ ?"

QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn. Họ được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á thời đó như Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Trường Bộ Binh Thủ Ðức, Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát.. cũng như Trường Ðại Học Quân Sự.

Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa :

"... xin vì chàng, xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng ..."
(Chinh Phụ Ngâm ố Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)

Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nổi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.

Thử hỏi trong cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH ? Trong lúc đã có không biết bao nhiêu người hiện nay, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính.

Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.

"...tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô ..."

Xin nghiêng mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường lưu xứ, đã và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và thương phế binh VNCH. đang quằn quại trong địa ngục xã nghĩa.

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
tháng 4-2009
Mường Giang