Sunday, June 29, 2008

Quân Đội Việt-Nam Cộng Hòa

Đỗ Thái Nhiên
Nguyên thiếu úy , trưởng ban Quân số
Tiểu Đoàn 3, Pháo Binh Phòng Không
KBC 4314


Lúc bấy giờ là tháng năm, 1985, người Việt Nam tại quốc nội, nhất là dân chúng cư ngụ vùng Saigòn, Gia Định, vẫn nô nức nhưng kín đáo tìm đường vượt biên. Trong trường hợp âm mưu vượt biên thất bại, người vượt biên sẽ bị Cộng Sản Việt Nam hành hạ dưới tội danh "phản quốc". Vì thế, công việc chuẩn bị vượt biên cần phải được bảo mật tuyệt đối. Chính vì hai chữ "bảo mật", nhiều người đã ra khơi một cách hoàn toàn bất ngờ, không một lời giã biệt bằng hữu. Riêng tôi, tôi nhất định vượt biên, nhất định bảo mật, nhất định ân cần thăm viếng và từ biệt bạn bè cũ. Nhằm đáp ứng các "nhất định" vừa nêu, một ngày trước khi rời xa quê hương, tôi quyết định tìm gặp những người bạn đặc biệt của tôi. Những người bạn đó hoàn toàn kín tiếng. Những người bạn đó không còn bận tâm chọn lựa đời sống ở bên này hay bên kia bờ đại dương. Những người bạn đó đã đi trọn đường trần bằng tất cả gian khổ với một ước mơ bất thành: ước mơ Việt Nam thống nhất, dân chủ và thịnh vượng. Những người bạn đó chính là các bạn đồng ngũ thương mến của tôi đang an nghỉ tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa.

Chiều hôm ấy, khoảng ba giờ, một mình tôi thẫn thờ bước vào nghĩa trang Biên Hòa. Bức tượng Thương Tiếc nằm ở ngay cổng đã bị mang đi nơi khác tự bao giờ. Con đường từ xa lộ chạy vào tới đài kỷ niệm Chiến Sĩ Trận Vong vẫn còn đó, vẫn dài, vẫn thẳng, nhưng hai hàng phượng đứng bên đường trông thật tiều tụy và ủ dột. Có thể vì phượng thiếu nước, thiếu gió. Có thể vì phượng muốn biểu tỏ tấm lòng trắc ẩn của cỏ cây dành cho hàng ngàn anh linh chiến sĩ đã vị quốc vong thân nhưng nay phải ngậm đắng nuốt cay nơi suối vàng trước cảnh "quốc" đang bị đè bẹp dưới ách độc tài Cộng Sản. Vào tới khu dành cho mộ phần của chiến sĩ, khách viếng mộ tận mắt chứng kiến toàn thể nghĩa trang đều bị đập phá tàn nhẫn. Đây là một ngôi mộ bị đào bới để lộ cả quan tàI mở nắp, di cốt tử sĩ đã biến mất. Kia là một ngôi mộ nằm ở triền đồi, bia đá vẫn còn nguyên nhưng di ảnh của ngườI quá cố có dấu vết vài phát đạn vào mắt, vào miệng. Kế đó là nơi an nghỉ của một sĩ quan cấp tá, trên bia đá, người nào đó lấy sơn đen viết một câu giễu cợt, rất phản văn hóa.

Cứ như vậy, khách viếng nghĩa trang lần lượt ghi nhận vô số hình ảnh não nề của một nghĩa trang bị nhận xuống tận cùng của hố ô nhục. Mặc cho ô nhục chồng chất, toàn bộ mộ phần của nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa vẫn lặng lẽ hướng về đài chiến sĩ trận vong. Đài này nằm trên đỉnh một ngọn đồi tọa lạc tại trung tâm nghĩa trang. Kiến trúc trọng yếu của đài chiến sĩ trận vong là một tháp xi-măng xám, cao vời vợi. Tháp này gợi nhớ hình ảnh cây bảo kiếm của người chiến sĩ vô danh năm xưa đã để lại nơi dương thế trước khi đi vào cõi vĩnh hằng. Từ cõi vĩnh hằng xa xăm kia, người ta vẫn nghe vang vọng một câu hỏi, nửa như kinh ngạc, nửa như phẫn hận: tại sao nghĩa trang của những anh hùng vị quốc vong thân lại có thể bị lăng nhục???

Bây giờ nhiều năm đã trôi qua... Bây giờ những xót xa về cảnh tượng hoang phế và cô tịch của nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa đã lắng đọng... Bây giờ những uẩn ức về lệnh buông súng tức tưởi đã trôi xa vào quá khứ... Bây giờ thời gian là năm 2002, một chiều tĩnh lặng cuối thu. Không gian là công viên tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ thuộc thị xã Westminster, California.

Tôi ngồi tựa lưng vào chân tượng đài, trầm ngâm suy nghĩ về quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

I. Phương pháp đánh giá một Quân Ðội.

Trước tiên, tôi nghĩ tới những luận cứ chê trách QĐVNCH. Có người nêu rõ danh tánh vài ba ông tướng buôn lậu để đơn giản cho rằng QĐVNCH là quân đội buôn lậu. Người khác đã viện dẫn trường hợp đào ngũ, nghịên ngập của năm bẩy quân phạm trong quân lao Gò Vấp để vội vàng kết luận: QĐVNCH là quân đội vô kỷ luật. Người khác nữa đã kể lại câu chuyện một quân nhân đầu hàng địch quân trên trận địa đê? Nhanh chóng nhận định QĐVNCH là quân đội hèn nhát... Tất cả các đánh giá vừa kể hiển nhiên là kiểu đánh giá xuất phát từ những người rất giầu ác ý nhưng vô cùng nghèo nàn hiểu biết về phương pháp đánh giá. Làm thế nào để chúng ta có thể đánh giá một tập thể trên căn bản chừng mực và nghiêm chỉnh? Đi tìm giải đáp cho câu hỏi vừa kể, có lẽ chúng ta nên suy nghĩ về một phương pháp đánh giá trong khoa kinh tế học. Mỗi khi tổng sản lượng quốc gia gia tăng, chưa hẳn người dân được sống trong thịnh vượng.

Những năm gần đây, tổng sản lượng quốc gia Việt Nam được ghi nhận là gia tăng nhưng tuyệt đa số quần chúng Việt Nam vẫn bị giam cầm trong cuộc sống cùng khổ. Lợi nhuận của sinh hoạt kinh tế phải là lợi nhuận chung của toàn bộ xã hội. Lợi nhuận kia phải được phân bổ hợp lý cho toàn dân. Thế nhưng CSVN đã cưỡng chiếm lợi nhuận kinh tế cho đảng CS và cho cá nhân đảng viên nhất là đảng viên thuộc giai cấp tư bản đỏ. Đó là lý do giải thích tại sao tổng sản lượng quốc gia VN gia tăng nhưng hai chữ "thịnh vượng" vẫn là ngườI khách cực kỳ xa lạ đối với quần chúng nghèo túng. Vì vậy, muốn so sánh mức độ thịnh vượng giữa hai hay nhiều nền kinh tế, các chuyên viên kinh tế phải đồng thuận với nhau về một người tiêu thụ mẫu mực gọi là "kinh tế nhân". Kinh tế nhân là người tiêu thụ một số lượng nhất định về các sản phẩm kinh tế căn bản như vải vóc, lương thực v...v... trong một thời lượng đã được quy ước trước. Thế rồi từ ý niệm kinh tế nhân, chúng ta có thể xác định mức độ thịnh vượng của một nền kinh tế bằng cách cân đo xem nền kinh tế đó đã thực sự nuôi dưỡng được bao nhiêu kinh tế nhân trên tổng dân số. Kết quả của việc cân đo này giúp chúng ta dễ dàng thiết lập bảng xếp hạng kinh tế thịnh vượng giữa các quốc gia. Đánh giá một nền kinh tế, chúng ta cần "kinh tế nhân" làm thước đo. Đánh giá một quân đội, chúng ta cũng cần một thước đo tương tự. Thước đo đó chính là một người lính bình thường. Người lính đó không phải là một ông tướng lúc nào cũng sẵn sàng "bỏ quân chạy lấy người". Người lính đó không phải là anh binh nhì, suốt ngày ngồi ở vọng gác thì thầm ca bài "Ky? Vật Cho Em". Người lính đó mang trong người đầy đủ "tính lính" mà hầu hết binh lính trong QĐVNCH đều có. NgườI lính đó là "người lính tiêu biểu". Bây giờ chúng ta hãy khảo sát phẩm cách người lính tiêu biểu, mà bài viết này chỉ gọi tắt là người lính.

II. Quá trình thụ giáo của người lính.

Muốn xác định phẩm chất của một quân đội, chúng ta không thể không tìm hiểu cội nguồn giáo dục đã đào tạo ra hàng ngũ quân nhân cho quân đội đó. Chế đô. CSVN là chế độ độc tài, tham ô và bóc lột. Vì vậy chế độ này cần rất nhiều tay sai để bảo vệ giới thống trị. Cũng vì vậy giáo dục của CSVN là giáo dục đào tạo tay sai. Chủ nghĩa Marx Lenine và luận cứ ca tụng đảng, suy tôn Hồ Chí Minh, là các công cụ trọng yếu của guồng máy giáo dục CS. Ngược lại, VNCH có một nền giáo dục "rất Người". Trên toàn lãnh thô? VNCH, các môn học như: công dân giáo dục, sử học, văn chương, triết học v...v... không hề có chỗ đứng dành cho tư tưởng độc tôn lãnh tụ hay độc tôn chế độ. Đó là nội dung cốt lõi của chương trình giáo dục nhân bản mà người lính của QĐVNCH đã được hấp thụ trong toàn bộ học trình của tiểu, trung và đại học. Đó là một sự thực mà không một người nào đã từng sinh ra và lớn lên trong xã hội VNCH có thể phủ nhận được. Một sự thực mà guồng máy thông tin tuyên truyền của CSVN không thể xuyên tạc hoặc bóp méo. Ngay sau khi "xếp bút nghiên theo việc đao cung", người lính lại bước vào trường học mới: ngành tâm lý chiến của QĐVNCH. Tại đây người lính không hề bị nhồi sọ để trở thành tay sai cho lãnh tụ hay chế độ chính trị nào.

Người lính của QĐVNCH chỉ được trang bị một loại võ khí tinh thần duy nhất là lòng yêu nước và tinh thần tôn trọng kỷ luật quân đội. Song song với giáo dục học đường dân sự và giáo dục tâm lý chiến của quân đội, người lính còn được hấp thụ một nền giáo dục nhân bản của toàn bộ xã hội. Người ta có thể không đồng ý với các chế độ chính trị tại VNCH về một số sự việc nào đó nhưng không thể chối cãi rằng VNCH là một chế độ tôn trọng quyền tự do tư tưởng. Quyền tự do này được thể hiện đậm nét trên hai lãnh vực: nghệ thuật trình diễn và nghệ thuật văn học. Điều này giải thích lý do tại sao sau nhiều năm bi. CSVN tìm đủ mọi phương cách để tiêu diệt, những tác phẩm văn học nghệ thuật xuất phát từ xã hội VNCH vẫn được lưu truyền càng ngày càng mạnh mẽ trong dân gian ở cả hai miền Nam và Bắc. Nhìn chung lại, giáo dục học đường, giáo dục tâm lý chiến cùng với giáo dục xã hội là ba nguồn giáo dục nhân bản mà người lính VNCH đã được tôi luyện từ thời niên thiếu cho đến hết cuộc đời binh nghiệp.Trong thực tiễn đời sống, ba nguồn giáo dục căn bản kia đã hướng dẫn người lính VNCH sống và chiến đấu đúng với hướng phát triển tình cảm trong sáng của một Con Người. Hướng phát triển đó được triết học cụ thể hóa bằng biểu đồ hình trôn ốc. Vạn vật vận động theo hình trôn ốc. Hình trôn ốc triết học có đỉnh đặt trên mặt đất, đáy hướng lên trời. Hình trôn ốc là hình vẽ diễn ý rằng mỗi vận động trong vạn vật đều xuất phát từ một điểm để sau đó phát triển rộng ra, cao lên, cả về lượng lẫn phẩm. Khảo sát diễn tiến phát triển tình cảm của một cá nhân,chúng ta thấy: ngay sau khi được cha mẹ cho chào đời, đứa bé quyến luyến cha me. Đó là tình con cái đối với cha mẹ (đỉnh của hình trôn ốc) Thế rồi theo đà khôn lớn, đứa bé tìm tới tình anh chị em ruột thịt, rồi tình họ hàng gần xa, rồi tình làng xã, tình quốc gia dân tộc, tình nhân loạị.. Cứ như thế tình cảm của con người sau khi rời đỉnh hình trôn ốc đã men theo các vòng xoáy hình trôn ốc để từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phong phú cả về phẩm lẫn lượng. Không còn nghi ngờ gì nữa, quá trình giáo dục của người lính VNCH hoàn toàn phù hợp với nhận định của triết học về vận động của vạn vật. Sự phù hợp vừa nói khẳng định mạnh mẽ rằng: môI trường sống cùng với môi trường giáo dục tại miền Nam Việt Nam trước 1975 đã tạo điều kiện cho người lính VNCH trở thành những người thực sự yêu quê hương đất nước theo đúng quy luật sinh hoạt tình cảm tự nhiên của Con Người.

III. Bản chất của người lính VNCH.

Do yêu quê hương đất nước, người lính VNCH đã nhận thức được rằng cuộc chiến đấu chống quân đội CSVN trước 1975 là cuộc chiến đấu cho tự do dân chủ, cho chính nghĩa. Sau 1975, nhà khoa học Nguyễn Thanh Giang đã kêu gọi mọi người Việt Nam (Bắc cũng như Nam) hãy tri ân chiến sĩ VNCH trong trận hảI chiến chống Trung quốc ơ? Hoàng Sa. Mới đây nhà văn Dương Thu Hương, một "chiến sĩ chống Mỹ cứu nước" trước kia đã giác ngộ chính nghĩa bằng cách viết bài "Tiếng Vỗ Cánh Của Bầy Qua. Đen". Qua bài viết này, Dương Thu Hương tố cáo cuộc chiến tranh tại Việt Nam trước 1975 do CSVN phát động là một tội ác phỉnh gạt vĩ đại. CSVN phỉnh gạt đồng bào miền Bắc bằng cách nhân danh tự do và cơm áo, đẩy đồng bào lao thân vào cuộc chiến tàn khốc tại miền Nam Việt Nam. Để rồi sau 30/4/1975, CSVN đã để lộ nguyên hình là một đảng Mafia tham ô và bóc lột. Nói ngắn và gọn, nhà văn Dương Thu Hương đã xác nhận điều được gọi là chiến tranh "Giải Phóng Miền Nam" do CSVN phát động chẳng qua chỉ là một hành động phi nghĩa. Các sự thể kể trên đã mạnh mẽ làm nổi bật tính chất chính nghĩa trong cuộc chiến đấu bảo vệ tự do cho miền Nam VN của người lính VNCH. Do yêu quê hương đất nước, người lính VNCH chấp nhận phục vụ quê hương với những điều kiện sinh hoạt rất thanh bạch. Nghèo khổ không than trách. Nguy hiểm không sờn lòng. Người lính VNCH bao giờ cũng tận tình với nghĩa vụ bảo quốc, an dân. Người lính tuyệt vời kia đã được đền thưởng những gì? Phần đền thưởng đó lại chính là con đường "vị quốc vong thân" trong tuyệt đối hiu quạnh. Con đường ấy đưa đẩy người lính rơi vào một tình huống cực kỳ quái dị, cực kỳ tê táị "Đám Ma Tù" là điển hình của tình huống vừa kể:

"Vài tên cầm súng bước đi đầu
Tên nữa AK tiếp theo sau
Một xác bó tròn đôi manh chiếu
Hai đầu buộc tréo bốn dây lau
Không kèn, không trống, không đưa tiễn
Chẳng khói, chẳng nhang, chẳng nguyện cầu
Chỉ có bạn tù khiêng lặng lẽ
Vùi nông một khối hận thù sâu !!!"
NgôMinh Hằng--Thi Phẩm Gọi Đàn

Do yêu quê hương đất nước, người lính VNCH bao giờ cũng chuyên cần đổ mồ hôi trên thao trường của các quân trường, bao giờ cũng thiện chiến và anh dũng đoạt chiến thắng lừng danh trên mọi hình thái trận địa. Các chiến thắng Bình Long, An Lộc, tái chiếm cổ thành Quảng Trị, mùa Hè Đo? Lửa 1972, phản ứng nhanh và chính xác trong biến cố Tết Mậu Thân v...v... là những thí dụ điển hình tạo nên "Quân Sư? Vàng" của QĐVNCH. Do yêu thương quê hương đất nước, người lính VNCH bao giờ cũng nêu cao gương trách nhiệm trong mỗi hành động chiến đấu. Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà anh dũng trầm mình theo chiến hạm do ông chỉ huy trong trận hải chiến với Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa. Các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Hai,Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn và vô số anh hùng quân đội vô danh khác đã ngạo nghễ chọn cái chết thay vì đầu hàng địch quân vào ngày 30/4/1975. Do yêu thương quê hương đất nước, người lính VNCH bao giờ cũng tôn trọng quân kỷ. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là người lính chỉ biết tuân hành mọi loại mệnh lệnh một cách mù quáng. Trong rất nhiều trường hợp, nghĩa vụ ân cần chăm sóc thương bệnh binh phải được xem trọng hơn nghĩa vụ tự giam bó trong quân kỷ. Đó là ý nghĩa của Kinh và Quyềợn trong tinh thần quân kỷ của người lính VNCH. Đó là ý nghĩa của kỷ luật tự giác mà người lính VNCH muốn đề cao. Đó còn là lý do giảI thích tại sao trong QĐVNCH lại có những hành động phản kháng kiểu Bác Sĩ Quân Y Hà Thúc Nhơn, Bác Sĩ Quân Y Phạm văn Lương.

IV. Hệ lụy của một quân đội bị bức tử.

Phẩm chất người lính tiêu biểu của QĐVNCH như đã trình bày ở trên chính là phẩm chất của toàn thê? QĐVNCH. QĐVNCH sinh ra, lớn lên và hùng mạnh trong môi trường nhân bản. QĐVNCH không hề là, không thể là quân đội tay sai của ngoại bang hay bất kỳ chế độ chính trị nào. QĐVNCH là hình ảnh sinh động của lương tri và ái quốc. QĐVNCH thiện chiến và chiến đấu dũng cảm. Thế nhưng, hành động phản bội của người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã mặc nhiên trói tay QĐVNCH. Khai thác hoàn cảnh "bị trói tay" đó, CSVN vội vàng tạo tội ác 30/4/75. Nói rõ ràng hơn, Hoa Kỳ phản bội cộng với bản chất gian ác của CSVN là hai lý do chủ yếu dẫn đến "cái chết" của QĐVNCH. Thông thường chết có nghĩa là từ giã mọi hệ lụy. Thế nhưng, ngay sau ngày bị "bức tử", QĐVNCH đã để lại cho dương gian ba hệ lụy căn bản như sau:

Hệ lụy 1: Hơn ai hết, VC nhận biết rất rõ bản chất nhân bản và ái quốc của QĐVNCH. Vẫn hơn ai hết VC tự nhận biết bản chất Mafia của CSVN. Nhà văn Dương Thu Hương gọi Mafia VC là "Bầy Qua. Đen". Lo sợ lòng yêu nước và tính dũng cảm của QĐVNCH được dư luận truyền tụng rộng rãi và lâu dài. Sự thể này sẽ làm gia tăng vượt bực lòng căm phẫn của nhân dân VN đốI với "Bầy Qua. Đen". Vì vậy trong các thập niên qua, CSVN không ngừng nỗ lực phá hoại uy danh của QĐVNCH. Ngày 24/9/2002 trên báo The Orange County Register, qua bài viết "Victory most can celebrate" của ký gia? Gordon Dillow, đã nhắc lại các sự việc:

· VC phá hủy có phương pháp nghĩa trang QĐVNCH
· VC đẩy hàng ngàn cựu chiến binh tàn phế của QĐVNCH vào cảnh sống hành khất.
· VC kiên trì và nỗ lực phá hoại công cuộc xây dựng tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ tại Westminster, California.

Ba sự việc nêu trên đi kèm với khối sách báo của VC viết về QĐVNCH là những bằng chứng mạnh mẽ cho thấy ác ý hủy diệt uy danh QĐVNCH của VC.

Hệ lụy 2: Sau chiến tranh Việt Nam, dư luận không hề cho rằng Hoa Kỳ đã thua kém VC trên địa bàn quân sự. Tuy nhiên "Hoa Kỳ phản bội QĐVNCH" là một sự thực không thể chối cãị nhằm xóa bỏ mặc cảm phản bội, giới truyền thông Hoa Kỳ đã cố gắng làm cho thế giới hiểu rằng chiến tranh VN là chiến tranh giữa Hoa Kỳ và VC. Đó là lý do giải thích tại sao sách báo và nhất là điện ảnh Hoa Kỳ triệt để tránh né đề cập tới vai trò của QĐVNCH trên chiến trường VN. Sự thể "tránh né" vừa nói đã làm cho dư luận hiểu lệch đi rằng QĐVNCH chỉ là cáI bóng mờ bên cạnh binh sĩ Hoa Kỳ và rằng QĐVNCH rất ngại chiến đấu. Để bác khước kiểu "hiểu lệch" kia, chúng ta hãy mang con số 400.000 tử sĩ VNCH đặt bên cạnh con số 50.000 binh sĩ Hoa Kỳ tử vong trong chiến tranh VN (http://encyclopediạcom/section/vietnam w. end of the war) . Sự sai biệt lớn lao giữa hai con số là một bằng chứng bằng máu về lòng ái quốc và dũng cảm của QĐVNCH.

Hệ lụy 3: Đương đầu với hệ lụy (1) và (2), QĐVNCH hoàn toàn im lặng trong cõi bức tử. Tình trạng im lặng kia là cơ hội làm cho một số người, nhất là những người ra đời sau 1975 hiểu lầm tai hại về thanh danh của QĐVNCH. Đó là hệ lụy thứ ba mà QĐVNCH đang gánh chịu.V. Giải trừ oan khiên. Những điều trình bày ở trên đã minh chứng cả ba hệ lụy là ba oan khiên. Làm thế nào để giải trừ oan khiên?

Giải trừ một: qúi vị cựu quân nhân của QĐVNCH hãy hãnh diện về tư cách cựu quân nhân của mỗi quý vị. Quý vị gia đình cựu quân nhân và tất cả những người xuất thân từ xã hội VNCH hãy ghi khắc trong tim óc của mỗi quý vị: chúng ta đã có nhiều thập niên sống trong sự che chở ân cần của QĐVNCH. Một quân đội đã bảo vệ người dân bằng chính sinh mệnh của người lính. Giải trừ hai: người Việt Nam lớn lên trong chiến tranh hãy giải thích cho người VN ra đời sau 1975, nhất là những người VN sinh trưởng tại quốc ngoại để họ hiểu biết tường tận về lương tri và lòng ái quốc của QĐVNCH trêạn những liên hệ thân thiết giữa người dân và QĐVNCH. Hành động giải thích này hoàn toàn không mang ý nghĩa của một cảm tính. Nó là sự truyềợn đạt từ thế hệ này qua thế hệ khác những hiểu biết về vận động quan trọng của lịch sử. Nó ẩn chứa trong nó ước mơ rằng: trong tương lai, quốc gia Việt Nam sẽ có một quân đội thực sự vì nhân dân. Các loại quân đội tay sai của "Bác", của Đảng, của bất kỳ phe phái chính trị nào phải triệt để bị loại bỏ. Ước mơ vừa nêu tuy gián tiếp nhưng mạnh mẽ vinh danh QĐVNCH. Giải trừ ba: đất nước là tài sản chung của toàn dân. Người dân phải thực sự là chủ nhân ông tối cao và duy nhất của đất nước. Đó là chân ý nghĩa của công bằng và lẽ phải. Đó là quy luật sống tự nhiên của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại. Quy luật sống tự nhiên kia đòi hỏi những hoạt động kiểu giáo dục, luật pháp, kinh tế, nhất là quân sự phải là sinh hoạt nhân bản và công bằng của xã hội. Bài viết này chỉ xin nhấn mạnh đến guồng máy quân đội. Quân đội dân chủ bao giờ cũng vận động theo chuẩn mực bởi dân, của dân và vì dân. Nhà cầm quyền dân chủ không bao giờ nuôi tham vọng biến quân đội trở thành công cụ bảo vệ ngôi vị cầm quyền. Qua quá trình giáo dục, qua quân sử và nhất là qua thực tiễn chiến đấu và phục vụ, QĐVNCH đích thực là một quân đội của xã hội dân chủ. QĐVNCH và dân chủ như hình vớI bóng. Chế độ dân chủ bị chà đạp, QĐVNCH bị lăng nhục. Vì vậy mọi người Việt Nam trong cũng như ngoài nước hãy nỗ lực mang lại dân chủ cho Việt Nam. Ngày chế độ dân chủ được tái lập tại Viet Nam chính là ngày danh dự của QĐVNCH được phục hồi.

Như vậy là ba phương pháp giải trừ đi kèm với ba hệ lụy. Mỗi giải trừ tượng trưng bởi một nén nhang.

· Nén nhang thứ nhất là lời tri ân của TỔ QUỐC
· Nén nhang thứ hai là lời vinh danh tinh thần TRÁCH NHIỆM của QĐVNCH
· Nén nhang thứ ba là lời nguyền quyết tâm phục hồi DANH DỰ cho QĐVNCH, một quân đội thực sự yêu nước , thiện chiến, và dũng cảm.


Người viết bài này kính cẩn đặt ba nén nhang kia dưới chân TƯỢNG ĐÀI CHIẾN SĨ Việt Mỹ ,Westminster,California. Hành động này mang hàm ý chúc mừng ngày khánh thành tượng đài. Hành động này còn là sự biểu tỏ lòng tuyệt đối tôn kính và thương yêu đối với QĐVNCH.

Đỗ Thái Nhiên

NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA 19 – 6 – 2008

NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA 19 – 6 – 2008
ANH HÙNG VÔ DANH



Linda Vu (Minesota)

Lúc còn bé học lớp năm trường làng, bài học thuộc lòng mà tôi thích nhất là bài “Anh Hùng Vô Danh” của Đằng Phương. Trừ những lúc phải học bài, tôi nghêu ngao nó suốt ngày không biết chán: khi rửa chén, lúc bế em, ngay cả lúc ru em ngủ. Mỗi khi đọc lên tôi cảm thấy thật hãnh diện vì tôi là người Việt Nam. Tôi đã được sinh ra và sống trên một giải đất nhỏ bé nghèo nàn hình cong chữ S, nhưng là một giải đất đầy tình thương và ý chí quật cường. Nó đã được bảo vệ, nuôi nấng, hy sinh bởi biết bao công lao của các thế hệ cha ông và bằng chính máu xương của những vị anh hùng vô danh này.

Đọc bài “Anh Hùng Vô Danh” chúng ta có thể tưởng tượng được những thắng lợi lẫy lừng của tổ tiên đã anh dũng đẩy lui những cuộc xâm lăng của giặc phương Bắc, giặc phương Tây và giặc phương Nam như thế nào. Để giữ gìn bờ cõi, để bảo vệ cho sự sống của gia đình, để toàn dân Việt không rơi vào tròng nô lệ của ngoại bang, “Anh Hùng Vô Danh” đã dùng chính máu xương mình, bất chấp hiểm nguy, bất chấp gian khổ, quyết một lòng hy sinh cho đại cuộc: Cứu Nguy Tổ Quốc, Giữ Vững Sơn Hà mà không màng đến vinh hoa phú quý. Với tấm lòng trung trinh ái quốc, anh hồn các Chiến Sĩ Vô Danh đã hợp với Tổ tiên và trở thành “Linh Hồn Giống Việt”:

    Họ là những anh hùng không tên tuổi,
    Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh,
    Không bao giờ được hưởng ánh vinh quang,
    Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.

    Họ là kẻ tự nghìn muôn thuở trước,
    Đã phá rừng xẻ núi lấp đồng sâu,
    Va làm cho những đất cát hoang vu,
    Biến thành những dải sơn hà gấm vóc.

    Họ là kẻ không nài đường hiểm hóc,
    Không ngại xa hăng hái vượt trùng sơn,
    Để âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn,
    Cuộc Nam tiến mở giang sơn lớn rộng.

    Họ là kẻ khi quê hương chuyển động,
    Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng,
    Đã xông vào khói lửa, quyết liều thân,
    Để bảo vệ Tự-Do cho Tổ-Quốc.

    Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc,
    Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan.
    Người thất cơ đành thịt nát xương tan,
    Những kẻ sống, lòng son không biến chuyển.

    Và đến lúc nước nhà vui, thoát hiểm,
    Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa.
    Họ buông gươm quay lại chốn quê nhà,
    Để sống lại cuộc đời trong bóng tối.

    Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi,
    Trong loạn ly, như giữa lúc thanh bình,
    Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh,
    Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.

    Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách,
    Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên,
    Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên,
    Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật,

    Nhưng máu họ đã len vào mạch đất,
    Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông.
    Và anh hồn chung với tấm trinh trung
    Đã hoà hợp làm linh hồn hồn giống Việt
Như mọi người đã biết, sau khi hiệp định Genève được ký vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, nước Việt Nam bị chia đôi. Miền Bắc do Hồ Chí Minh cầm quyền, theo chủ nghĩa cộng sản. Miền Nam do ông Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ Tướng, thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa, theo chính thể Tự Do Dân Chủ.

Từ đầu năm 1955 với sự viện trợ của Hoa Kỳ, ông thâu nhận quân đội quốc gia từ tay vua Bảo Đại và thành lập QLVNCH. Bảo Chính Đoàn, quân của phe Bình Xuyên, Cao Đài, và Hòa Hảo, là những lực lượng do Pháp trao lại, sau đó ông tuyển mộ thêm binh sĩ. Nhiều đơn vị mới được thành lập như Dù, Thiết Giáp, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Kích, và Biệt Động Quân. Các trường huấn luyện Sĩ Quan Hải Quân và Không Quân được thành lập ở Nha Trang,. Trường Sĩ Quan Hiện Dịch ở Đà Lạt, trường Sĩ Quan Trừ Bị ở Thủ Đức. Trường huấn luyện Hạ Sĩ Quan và Bộ Binh gồm Đồng Đế, Quang Trung, Dục Mỹ, trường Thiếu Sinh Quân và trường Truyền Tin ở Vũng Tàu. Rất nhiều sĩ quan cấp Tham Mưu Trưởng đã được đào tạo tại Mỹ, Nhật và nhiều nước khác.

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) có Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ (là biểu tượng của Dân Tộc và Tự Do) và quốc ca là bài Tiếng Gọi Công Dân. Quân lực đó đã được sinh ra để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân, không phải để bảo vệ đảng và làm tay sai cho cs quốc tế như quân đội nhân dân của bọn Việt gian cộng sản. Chúng ta không thể quên những chiến trận kiêu hùng của QLVNCH như: Dakto, Daksud, Bình Giả, An Lộc, Lam Sơn 719 Hạ Lào, Plei Me, Ia Drang, Ban mê thuột, Tết Mậu Thân, Quảng Trị, Mùa Hè Đỏ Lửa, Xuân Lộc, và Hoàng Sa/Trường Sa v...v... Trong đó đặc biệt trận Plei Me/Ia Drang xảy ra năm 1965 cộng sản có ý đồ cắt miền Nam thành hai. Trận Tết Mậu Thân gây tổng nổi dậy để chiếm trọn miền Nam ép Mỹ vào bàn hội nghị. Trận Khe Sanh 1971 với ý đồ tạo một Điện Biên Phủ thứ 2, trận Xuân Lộc để tiến thẳng vào Sàigòn, và trận Hoàng Sa /Trường Sa để chiếm biển Đông.

Cựu tướng Pháp Vanuxem đã từng nhận xét: “Khi có những người chỉ huy xứng đáng ở bên họ thì người lính VNCH không thua một người lính của bất cứ cường quốc nào trên thế giới.” (LS. Phạm Kim Vinh – Cái Chết của Nam VN, trang 419, 1976).

Vào giờ phút chót của Sàigòn, một Đ/tá Dù đã trả lời nhà báo Pháp Jean Lartéguy: “Cần nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương, hay vì Minh. Chúng tôi chết vì có thói quen ưa tự do.” (LS. Phạm Kim Vinh – Cái Chết của Nam VN, trang 378, 1976.)

Và Tướng Nguyễn Khoa Nam đã cho thế giới bên ngoài biết rằng ông đã chọn cái chết để bảo vệ uy tín và danh dự cho QLVNCH, tổ chức mà ông đã nguyện tự hiến dâng đến trọn đời (LS. Phạm Kim Vinh – Cái Chết Của Nam VN, Trang 423, 1976).

QLVNCH là một quân đội ưu tú, hùng mạnh ở Đông Nam Á. Một quân đội đã chiến đấu bằng trái tim nhiệt huyết, bằng khối óc và bằng niềm tự hào dân tộc với một tinh thần đồng đội rất cao. Họ chiến đấu anh dũng và hy sinh tất cả tuổi trẻ của mình để “Bảo Quốc An Dân.” Nhưng miền Nam đã phải mất vì những nguyên do chính sau đây:

    - Quốc Hội Mỹ cắt viện trợ tài chánh và quân cụ cho Miền Nam. Cắt viện trợ hỏa lực phủ đầu và tiếp cứu trong những trận đánh còn lại sau ngày ký Hiệp Định Paris ngày 20/1/1973. Vì thế hôm nay Người Việt Tỵ Nạn cần phải đi bầu thật đông để áp lực quốc hội Mỹ làm đúng.

    - Truyền thông Mỹ đã nói sai vì họ nhận những tin tức sai từ những nhà báo thân cộng. Bây giờ xin mọi người chú ý đến “truyền thông hải ngoại” hơn nữa. Truyền thông mạnh, dám nói lên sự thật, đưa tin nhanh và lan rộng là chúng ta thắng. Chúng ta cần liên hệ chặt chẽ với truyền thông Mỹ tại các địa phương để họ có tin tức đúng và hỗ trợ chúng ta tốt đẹp hơn. Kéo thêm bạn về phía ta, đừng tạo thêm kẻ thù, đó là trúng độc kế của VGCS.

    - Chiến thuật của quân đội Mỹ là “Tìm và diệt địch, nhưng không thủ thắng”. Cho địch một hậu phương và đường tiếp tế an toàn. Trong khi đó hậu phương miền Nam bị địch khuấy phá tan nát. Kinh nghiệm đó chúng ta cần phải lột trần mặt nạ những tên nằm vùng và tay sai để đánh tan những ổ hoạt động của nghị quyết # 36, dù chúng là bạn thân hay người thân, để chúng ta có một hậu phương vững mạnh hậu thuẫn cho tiền tuyến ở trong nước. Phải nghĩ đến tổ quốc trước gia đình sau như Đức Trần Hưng Đạo hay Hai Bà Trưng. Họ đã quên thù nhà lo nợ nước trước thì mới thành công được.

    - Chúng ta tất cả cũng có lỗi và sơ sót, xin để những nhà chiến lược bàn đến.
Trong Asia # 58 nhà văn Phan Nhật Nam đã nói: “QLVNCH đã thắng và đại thắng trong nhiều mặt trận để cho chúng ta được sống trong tự do 21 năm – từ 54 đế 75 – và tiếp tục chiến đấu đến hơi thở cuối cùng khi hết đạn để tất cả quý vị và tôi đến được bến bờ tự do trên khắp thế giới. Chúng ta đã và đang sống bằng MÁU và sự hy sinh cao cả của những chiến sĩ đã nằm xuống. Hôm nay chúng ta đến đây không phải để giải trí, để tưởng nhớ mà để đền tạ và tiếp nối những chiến sĩ oai hùng đó trong công việc cứu nguy tổ quốc, giành lại Tự Do và đất biển đã mất cho Dân Tộc. Mười vị tướng cùng rất nhiều sĩ quan cấp tá, cấp úy đã chiến đấu tới cùng với chiến sĩ của mình để chận bước tiến của cộng sản vào SG. Giờ phút cuối họ đã tuẫn tiết vì không muốn đầu hàng địch và vì 4 chữ “VIỆT NAM CỘNG HÒA.”

Khắp 4 biển 5 châu, chế độ cộng sản đã chứng tỏ họ là đại họa của nhân loại. Họ thành công trong sách lược tàn sát, tra tấn, bỏ tù hàng trịệu triệu người dân vô tội, nhưng họ thất bại trong việc chiếm con tim của mọi người. Ờ VN họ đang ngồi trên núi xương sông máu và đặt dân tộc VN vào xiềng nô lệ của Trung Cộng. Dưới ách thống trị của thực dân người Việt không bỏ nước ra đi. Nhưng khi cộng sản giải phóng tới đâu thì người dân ở đó phải chạy trốn. Họ chạy trốn chính những kẻ đến giải phóng họ, vì sống dưới chế độ cộng sản là một tuyệt vọng, tuyệt vọng không được làm người.

Chúng ta đi tỵ nạn để đem TỰ DO về cho quê hương. Không phải để ngủ quên và sống ươn hèn trong hưởng thụ. Xin đừng quên những oan hồn của những người đã mất và tiếng kêu than rên siết của DÂN OAN đang tranh đấu cho bất công họ đang phải chịu, cho miếng cơm, manh áo, nhà ở mà họ đã bị cướp mất.

Ai là chiến sĩ vô danh của thời đại chúng ta? Họ là:

    * Trên 2 triệu thường dân và binh sĩ chết vì chiêu bài “cứu quốc” của Việt Minh từ 1945-1954. Họ đã bị lừa!

    * Chương trình Cải Cách Ruộng Đất trong thập niên 1950 có 47, 000 người Bắc Việt đã bị đấu tố và bắn chết, một số bị cô lập để chết đói hoặc tự tử, gây bao đau khổ khốn đốn cho hàng trăm nghìn người thân quyến của họ.

    * 1,600,000 thường dân miền Nam bị Việt cộng tàn sát trong thời kỳ chiến tranh từ 1962 đến 1975.

    * 10,000 hoặc hơn thường dân miền Nam bị Việt cộng tàn sát trong vụ tấn công tết Mậu Thân.

    * 20,000 binh sĩ VNCH tử trận trong vụ tết Mậu Thân (1968)

    * 100,000 binh sĩ MTGPMN và cs Bắc Việt tử trận trong vụ tết Mậu Thân.

    * 300,000 binh sĩ của cả hai bên và thường dân chết từ tháng giêng đến đầu tháng 5 – 1975.

    * 500,000 hay hơn thuyền nhân chết trên biển Đông (bị bắn chìm, bị lật tàu, bị hải tặc giết bị chết vì đói hay bệnh, bị ngụy quân Việt gian cs cải trang làm cướp biển hãm hiếp hoặc quăng những trẻ thơ xuống biển)

    * 70,000 tới 80,000 tù nhân chính trị chết trong các trại giam của cs VN từ 1975.

    * Hàng trăm tù nhân chính tri chạy trốn bị bắn chết hay chết trong rừng. Một số vợ con của sĩ quan QLVNCH khi đi thăm chồng đã bị lũ coi tù trá hình làm cướp hãm hiếp, bắn giết.

    * 100,000 hay hơn binh sĩ cộng sản VN tử trận và bị giết tại Cam Bốt. Hầu hết những chí nguyện quân miễn cưỡng này là thanh niên miền Nam.

    * 20,000 Việt kiều hay hơn bị cáp duồn ở Cam Bốt từ 1975 tới nay.

    * Vì cộng sản VN muốn: “thành phố cũ dành cho người chế độ mới. Kinh tế mới dành cho người chế độ cũ”, hàng trăm ngàn người chết tại các vùng kinh tế mới vì bệnh hay vì đói rét. Chúng thi đua vơ vét, cướp bóc và đánh tư sản ở miền Nam.

    * Hàng chục nghìn người chết vì điện giựt, mìn, tàu chìm, thú rừng, bão lụt vì đê điều không được bảo trì.

    * Hiện nay hàng vạn người Việt bị khủng bố, sát hại, rượt đuổi và nhục mạ tại các nước Đông âu, Cam Bốt, Thái Lan, Hồng Kông và các công nhân của các hãng xưởng tại VN đang bị chủ Trung cộng cho cán bộ đánh đập và bóc lột.

    * Nhiều nhà văn đã bị tù đầy, bóp nghẹt, đàn áp trong thập niên 50 – 60 và từ sau 75.

    * Hơn một triệu thương phế binh cộng sản, chưa kể thương phế binh VNCH (cố TS. Dư Phước Long - Bản Cáo Trạng 50 năm tội ác cộng sản – ông viết trước khi chưa có cuộc tranh đấu của Cha Lý).

    * Cộng thêm với số người đã hy sinh ở trên, xin đừng quên trong chiến dịch “chiến tranh nhân dân” để thi hành chiến lược “lấy nông thôn vây thành thị” không biết bao nhiêu người dân đã phải chết. Ngay cả những người đã đóng góp, đã nuôi địch, kể cả những tướng cs đã thắng trận. Thật không sao kể xiết!
Họ chính là những anh hùng vô danh của thời đại chúng ta.

Chúng ta hãy ngậm ngùi, xót thương cho những chiến sĩ vô danh, và đoàn kết lại. Biến đau thương thành hành động, giải cứu cho 83 triệu người đang đau khổ và ngăn chận làn sóng đỏ Trung cộng đang muốn nuốt trôi nước Việt Nam thương yêu của chúng ta.

Theo gương quyết chí của Trần Hưng Đạo: “Đầu tôi chưa rơi xin Bệ Hạ đừng đầu hàng” toàn quân toàn dân chúng ta hãy đứng lên cứu nước. Đây là cuộc Cách Mạng Toàn Diện cho Việt Nam. Quân đội của chúng ta là tất cả mọi người: già, trẻ, nam, nữ. Vũ khí của chúng ta là lời nói để vạch trần mọi gian dối và độc ác. Hỏa lực của chúng ta là thống nhất ý chí, niềm tin quyết thắng và đoàn kết không sờn. Sức mạnh của chúng ta:

- Ở hải ngoại, gồm sức mạnh của truyền thông, các cộng đồng, các đoàn thể, các tôn giáo hợp với sức mạnh của các tổ chức của QLVNCH,- Ở trong nước, gồm tầng lớp nhân dân bị trị và những thành phần còn nặng lòng yêu nước.

Miền Nam bị cướp mất một cách gian lận sau Hiệp Định Paris nên chúng ta phải tạm ngưng để chỉnh đốn lại hàng ngũ, kiểm điểm thực lực, thay đổi chiến thuật chứ không phải đầu hàng. QLVNCH là một tổ chức chặt chẽ, được mọi người tin tưởng và kính nể, là một sức mạnh mà cs VN rất sợ. Vì thế Việt Gian cộng sản cố mua chuộc những người ham danh, ham lợi để gây chia rẽ, để làm cho sức mạnh đó yếu đi, mong rằng chúng sẽ mãi được ngồi trên chiếc ghế “độc tài đảng trị” mà Nga sô và trung Cộng đã dựng lên cho chúng.

Nhưng khối “tỵ nạn cs hải ngoại” đang thành công, sức ép của hải ngoại đã làm cho VGCS phải thay đổi. Chúng ta cần phải ép mạnh hơn nữa để công an và quân đội sẽ hợp sức với chúng ta. Quân đội của bọn Việt gian đã có rạn nứt từ 2007.

Vì lầm lỡ, dễ tin, cả nước đã bị lừa, chúng ta đã để hơn 10 triệu người phải chết một cách tức tưởi. Nhân ngày Quân Lực chúng ta hãy cùng nhau viết lên một trang sử mới cho dân tộc. Đừng chĩa mũi dùi vào nhau, tất cả hãy chĩa mũi dùi vào kẻ thù chung là đảng cộng sản VN, là chính quyền gian tham, lừa lọc và phản quốc của VGCS. Họ bóc lột người dân chỉ để phục vụ quyền lợi của Nga Tàu. Xin các anh công an và quân đội ở trong nước, các anh nằm vùng và tay sai ở hải ngoại, với tinh thần yêu nước cao độ, xin các anh hãy cùng QLVNCH và toàn dân đứng lên cứu nước, mau chấm dứt nạn giam giữ và giết người vô cớ - họ là người Việt Nam; mau giải cứu tất cả những nhà tranh đấu và những người dân vô tội đang bị giam trong các nhà tù là những địa ngục của trần gian – họ là người Việt Nam; và cứu nước Việt Nam không bị xóa tên trên bản đồ thế giới vì phải trở thành một Tây Tạng của Trung cộng. Cầu xin anh hồn của các chiến sĩ vô danh phù hộ cho Cờ Vàng 3 sọc đỏ sẽ thay thế Cờ Đỏ Sao Vàng – một ngọn cờ đại diện cho ngoại bang, cho máu và nước mắt của hơn 10 triệu người dân Việt vô tội đã hy sinh – để toàn dân Việt Nam được sống trong TỰ DO và HẠNH PHÚC thật sự.

Linda Vũ (Minnesota)

Lá Cờ Vàng Nền Cộng Hòa Tổ Quốc Việt Nam Là Một

Lá Cờ Vàng Nền Cộng Hòa Tổ Quốc Việt Nam Là Một
Ngày 19/06/2008 - Phan nhật Nam



    Cờ bay!
    Cờ bay!
    Giữa vũng lửa
    Trầm trầm dân, lính nước mắt ứa
    Một lần Cờ bay Vàng thành xưa
    Bao phần máu xương Người Việt đổ...
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là chung của tất cả Chúng Ta - Dân Tộc nơi Phương Nam dựng phận nghiệp Khổ Đau nhưng Siêu Việt. Cờ Vàng Ba Sọc đỏ là mối biễu tượng thuần thành, chính thống nhất. Bởi Cờ đã dựng lên uy nghi suốt giải quê hương từ Ải Nam Quan, miền núi cực bắc Đồng Đăng, Cao Bằng, Lạng Sơn, đến Mũi Cà Mâu, vùng đầm lầy Quản Long, An Xuyên, cuối nguồn Cửu Long, Sông Cái.


    Dẫu Cờ mất đi quyền hiện diện chính trị.
    Nhưng Cờ vẫn linh thiêng vĩnh hằng tồn tại nơi trái tim, và hơi thở chúng ta.
    Cờ bay không ngừng như máu chảy tự thân.
    Lá Cờ Vàng - Nền Cộng Hòa - Tổ Quốc Việt Nam là Một.
Ngày 26 Tháng Mười, Năm 1955, nền Cộng Hòa khai sinh ở Thủ Đô Sài Gòn với danh hiệu chính thức: Việt Nam Cộng Hòa thay thế danh hiệu Quốc Gia Việt Nam, thể chế chính trị thành hình từ 8 tháng Ba, 1949, ngày Hiệp Ước Elysée ký kết giữa Tổng Thống Cọng Hòa Pháp Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại chấm dứt 65 năm thuộc Pháp (1884-1949). Chức vụ nguyên thủ quốc gia, "Tổng Thống thay thế danh xưng Quốc Trưởng". Ngày 8 tháng 3, 1956, Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa chính thức công bố Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là Quốc Kỳ, Quốc Huy của nước là hình Cây Trúc biễu tượng Tinh Thần Chính Nhân, Đại Nghĩa của Dân Tộc Việt Nam. Chúng ta hôm nay cần nhắc lại những sự kiện, thời điểm lịch sử kể trên để cùng nhau xác chứng lại một điều hiễn nhiên: Lá Cờ Vàng, danh hiệu Việt Nam Cộng Hòa là một Thực Thể Chính Trị- Biễu Tượng Quốc Gia- Lý Chính Nghĩa- Sức Chiến Đấu của vạn, triệu Người Việt dài theo cùng Thế Kỷ 20 và trước đây, lẫn mai hậu. Dẫu hôm nay có những âm mưu đê tiện, thâm độc đòi xoá bỏ đi biễu tượng cao quý nhiệm mầu trên vì nại cớ chúng đã có liên hệ với những nhân sự, vụ việc gây nhiều lầm lỡ của giai đoạn từ sau cuộc đại chiến thế giới lần hai (1945) đến ngày thiên thu uất hận 30 tháng 4, 1975. Chúng ta phải vô cùng sáng suốt cảnh giác trước mưu hiễm của kẻ nghịch cùng đồng lõa và kiên trì giữ vững niềm tin, sức chiến đấu: Bởi máu của anh em ta, của cả dân tộc khổ nạn đã tô thắm thêm ba đỏ vạch sắc son nầy. Và Cộng Hòa không chỉ là danh xưng về thể chế chính trị, nhưng là mục đích tối thượng của toàn khối Người Việt luôn kiên tâm thực hiện Sống xứng đáng Giá Tri. Con Người, giữ gìn bền bỉ Phẩm Tính Dân Tộc. Nền Cộng Hòa, Cờ Tam Tài "Xanh-Trắng-Ðỏ" luôn là biễu tượng huy hoàng, vĩ đại của Dân Tộc Pháp, và cũng của toàn nhân loại về nỗ lực thực hiện ý niệm "Cộng Hòa-Tự Do Dân Chủ", dẫu Cách Mạng 1789 phải trả bằng giá máu kinh hoàng của bao người vô tội do tay những kẻ khủng bố tàn nhẫn. Mao Trạch Đông đã không tùy nghi vô cớ liên kết cách mạng vô sản với cuộc Chiến Tranh Nha Phiến 1884 giữa Triều Đình nhà Thanh với những đại cường Tây Phương trong buổi lễ vĩ đại ngày 1 tháng 10, 1949 nơi Quảng Trường Thiên An Môn mừng lần thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân - Bởi đấy là Truyền Thống chiến đấu giữ nước của Dân Tộc Trung Hoa. Chúng ta không thể tạo dựng nên điều vô cớ, bởi lá Cờ Vàng quả thật đã thấm đẫm lượng máu vô hạn của lớp lớp Người Việt quyết tử để Dân Tộc tồn sinh. Giòng máu oanh liệt của nhị vị Trưng Nữ Vương hòa xuống Hát Giang năm 43 lúc nước vừa mới tượng hình được tiếp nối với lượng sóng sông Bạch Đằng của kỳ giữ nước quang vinh, Thế Kỷ 13 quân Nhà Trần đánh tan ba lần đạo binh bách thắng Nguyên Mông. Từ bậc quân vương, đến người lính đầu bạc, cũng như ngựa đá phải chồn chân, hãn huyết xông lên trận tiền giữ nước. Đấy cũng là giòng máu kiên trung, hiến thân cho mệnh nước hằng tuôn chảy không ngừng khi Chiến Hạm Nhựt Tảo-Hải Quân 10 chìm xuống, hòa lẫn màu biển Hoàng Sa ngày 19 tháng 1, 1974, cùng thân xác Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà, và những Người Lính Hải Quân Quân Lực Cộng Hòa giữ gìn trời, biển phương Nam. Thế nên, Cờ không chỉ giới hạn là biễu hiện của riêng những chế độ cầm quyền, với Quốc Gia Việt Nam hay hai nền Cộng Hòa. Và Cộng Hòa là ý niệm tối thượng của cuộc sống- chiến đấu bất tận trên vùng đất lửa phương Nam. Dẫu sống vô cùng nguy biến đau thương như hằng hằng những đoàn người chạy loạn cộng sản-Từ cuộc di cư vĩ đại năm 1954 rời bỏ Miền Bắc; lần chạy nạn Tổng Công Kích Mậu Thân 1968; cảnh Mùa Hè Đỏ Lửa suốt ba vùng đất nước năm 1972, và lần oan khốc uất hận khi mất Cao Nguyên từ ngày 10 tháng 3, 1975 để đến hôm nay hiện thực với hai triệu người có mặt ở hải ngoại ố Những NGƯỜI VIỆT TY. NẠN CỘNG SẢN ĐỂ THỰC HIỆN Ý NIỆM CỘNG HÒA. Vậy, chúng ta phải khẳng định lại thêm một lần: Lá Cờ Vàng - Danh Hiệu Cộng Hòa là sức mạnh chuyển giòng đấu tranh xuyên suốt lịch sử từ những lần vị quốc vong thân sáng ngời trung liệt của Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương khi thành mất; của Trương Công Định, liệt sĩ Vàm Láng, Gò Công; của Nguyễn Trung Trực với chiến công vang động giòng Vàm Cỏ, Long An: "Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa. Kiếm bạc Kiên Giang khốc quỷ thần", cho đến lần Cờ lên trên Kỳ Đài Cố Đô Huế, sáng Mùa Xuân Mậu Thân, 24 tháng Hai, 1968.


    Quân dân ta nên một lần bật khóc
    Khi lá Cờ Vàng Ba Sọc
    Lừng lững lên cao
    Giữa mờ sương xứ Huế sáng Xuân nào!
Danh hiệu Cộng Hòa bao gồm trong lời hô uy dũng của mười ba Liệt Sĩ Quốc Dân Đảng "Việt Nam Độc Lập Muôn Năm" nơi Yên Bái, sáng sông núi gờn gợn đau thắt, 17 tháng 6, 1930, không khác ý niệm quyết tử "Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm" của trung đội lính Nhảy Dù do Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái chỉ huy, đã chọn giây phút báo đền ân nghĩa quê hương với chính xác thân mình nỗ tung bởi trái lựu cuối cùng, buổi sáng 30 tháng Tư, 1975 nơi bùng binh Ngã Sáu, Chợ Lớn. Danh hiệu Cộng Hòa linh thiêng kia đã bừng lên soi rạng khoảng trời đất u tối sáng 29 tháng 4, 1975 khi chiếc Hỏa Long C119 của Trung Úy Nguyễn Văn Thành bốc cháy trên không gian Tân Sơn Nhất, Gia Định. Và giá trị Cộng Hòa mải mải tồn tại trong thanh âm quyết liệt của Hồ Ngọc Cẩn, Trần Văn Bá khi đối diện với nòng súng của trung đội hành hình. Chúng ta hôm nay cũng tương tự tình cảnh của những người Việt lưu vong đầu thế kỷ ở Sa Khôn, Thái Lan, với tất lòng đau xót như đã một lần được Tú Tài Đặng Thúc Hứa, đồng chí của nhị vị tiền bối Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh diễn dạt khi nhớ về quê nhà đang trong cơn điêu linh nhục thãm:


Vùng Quê Hải, gió tanh mưa máu, án ba đào vì tình thế xui nên.
Cõi Viêm Bang, núi thịt cồn xương, nỗi bi thảm xưa nay chưa có.
Ngoài ngàn dặm trông về cố quốc,
Non sầu bể thảm, quặn ruột gan chín khúc tơ vò.
Cuộc trăm năm tưởng tới đồng tâm,
Cỏ úa hoa dàu, dẫu sắt đá cũng hai hàng lệ nhỏ.


Nỗi Đau cào xé nầy luôn bừng bừng cùng mối Ước Nguyện sắc son - Lần dựng lên trong nắng Miền Nam mầu uy nghi rực rỡ Cờ Vàng, và câu hát đã một lần vang động núi sông lẫm liệt cảm động ánh sáng vĩnh cửu Cộng Hòa.

Cờ bay! Cờ bay!
Trên thành phố thân yêu

Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu!!

CHÚNG TA PHẢI HÁT LẠI THÊM MỘT LẦN CÂU HÁT BI HÙNG NẦY TRÊN TOÀN CÕI QUÊ HƯƠNG

Viết để nhắn nhở, vững tin Nghĩa Lớn - Việt Nam Cộng Hòa

Phan nhật Nam

26 Tháng Mười, 1955 — 26 Tháng Mười, 2002

Saturday, June 28, 2008

19/06/2008


Ngày 19/06/2008 -
Phan nhật Nam


Cờ bay!
Cờ bay!

Giữa vũng lửa
Trầm trầm dân, lính nước mắt ứa
Một lần Cờ bay Vàng thành xưa
Bao phần máu xương Người Việt đổ...

Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là chung của tất cả Chúng Ta - Dân Tộc nơi Phương Nam dựng phận nghiệp Khổ Đau nhưng Siêu Việt. Cờ Vàng Ba Sọc đỏ là mối biễu tượng thuần thành, chính thống nhất. Bởi Cờ đã dựng lên uy nghi suốt giải quê hương từ Ải Nam Quan, miền núi cực bắc Đồng Đăng, Cao Bằng, Lạng Sơn, đến Mũi Cà Mâu, vùng đầm lầy Quản Long, An Xuyên, cuối nguồn Cửu Long, Sông Cái.

Dẫu Cờ mất đi quyền hiện diện chính trị.
Nhưng Cờ vẫn linh thiêng vĩnh hằng tồn tại nơi trái tim, và hơi thở chúng ta.
Cờ bay không ngừng như máu chảy tự thân.
Lá Cờ Vàng - Nền Cộng Hòa - Tổ Quốc Việt Nam là Một.

Ngày 26 Tháng Mười, Năm 1955, nền Cộng Hòa khai sinh ở Thủ Đô Sài Gòn với danh hiệu chính thức: Việt Nam Cộng Hòa thay thế danh hiệu Quốc Gia Việt Nam, thể chế chính trị thành hình từ 8 tháng Ba, 1949, ngày Hiệp Ước Elysée ký kết giữa Tổng Thống Cọng Hòa Pháp Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại chấm dứt 65 năm thuộc Pháp (1884-1949). Chức vụ nguyên thủ quốc gia, "Tổng Thống thay thế danh xưng Quốc Trưởng". Ngày 8 tháng 3, 1956, Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa chính thức công bố Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là Quốc Kỳ, Quốc Huy của nước là hình Cây Trúc biễu tượng Tinh Thần Chính Nhân, Đại Nghĩa của Dân Tộc Việt Nam. Chúng ta hôm nay cần nhắc lại những sự kiện, thời điểm lịch sử kể trên để cùng nhau xác chứng lại một điều hiễn nhiên: Lá Cờ Vàng, danh hiệu Việt Nam Cộng Hòa là một Thực Thể Chính Trị- Biễu Tượng Quốc Gia- Lý Chính Nghĩa- Sức Chiến Đấu của vạn, triệu Người Việt dài theo cùng Thế Kỷ 20 và trước đây, lẫn mai hậu. Dẫu hôm nay có những âm mưu đê tiện, thâm độc đòi xoá bỏ đi biễu tượng cao quý nhiệm mầu trên vì nại cớ chúng đã có liên hệ với những nhân sự, vụ việc gây nhiều lầm lỡ của giai đoạn từ sau cuộc đại chiến thế giới lần hai (1945) đến ngày thiên thu uất hận 30 tháng 4, 1975. Chúng ta phải vô cùng sáng suốt cảnh giác trước mưu hiễm của kẻ nghịch cùng đồng lõa và kiên trì giữ vững niềm tin, sức chiến đấu: Bởi máu của anh em ta, của cả dân tộc khổ nạn đã tô thắm thêm ba đỏ vạch sắc son nầy. Và Cộng Hòa không chỉ là danh xưng về thể chế chính trị, nhưng là mục đích tối thượng của toàn khối Người Việt luôn kiên tâm thực hiện Sống xứng đáng Giá Tri. Con Người, giữ gìn bền bỉ Phẩm Tính Dân Tộc. Nền Cộng Hòa, Cờ Tam Tài "Xanh-Trắng-Ðỏ" luôn là biễu tượng huy hoàng, vĩ đại của Dân Tộc Pháp, và cũng của toàn nhân loại về nỗ lực thực hiện ý niệm "Cộng Hòa-Tự Do Dân Chủ", dẫu Cách Mạng 1789 phải trả bằng giá máu kinh hoàng của bao người vô tội do tay những kẻ khủng bố tàn nhẫn. Mao Trạch Đông đã không tùy nghi vô cớ liên kết cách mạng vô sản với cuộc Chiến Tranh Nha Phiến 1884 giữa Triều Đình nhà Thanh với những đại cường Tây Phương trong buổi lễ vĩ đại ngày 1 tháng 10, 1949 nơi Quảng Trường Thiên An Môn mừng lần thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân - Bởi đấy là Truyền Thống chiến đấu giữ nước của Dân Tộc Trung Hoa. Chúng ta không thể tạo dựng nên điều vô cớ, bởi lá Cờ Vàng quả thật đã thấm đẫm lượng máu vô hạn của lớp lớp Người Việt quyết tử để Dân Tộc tồn sinh. Giòng máu oanh liệt của nhị vị Trưng Nữ Vương hòa xuống Hát Giang năm 43 lúc nước vừa mới tượng hình được tiếp nối với lượng sóng sông Bạch Đằng của kỳ giữ nước quang vinh, Thế Kỷ 13 quân Nhà Trần đánh tan ba lần đạo binh bách thắng Nguyên Mông. Từ bậc quân vương, đến người lính đầu bạc, cũng như ngựa đá phải chồn chân, hãn huyết xông lên trận tiền giữ nước. Đấy cũng là giòng máu kiên trung, hiến thân cho mệnh nước hằng tuôn chảy không ngừng khi Chiến Hạm Nhựt Tảo-Hải Quân 10 chìm xuống, hòa lẫn màu biển Hoàng Sa ngày 19 tháng 1, 1974, cùng thân xác Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà, và những Người Lính Hải Quân Quân Lực Cộng Hòa giữ gìn trời, biển phương Nam. Thế nên, Cờ không chỉ giới hạn là biễu hiện của riêng những chế độ cầm quyền, với Quốc Gia Việt Nam hay hai nền Cộng Hòa. Và Cộng Hòa là ý niệm tối thượng của cuộc sống- chiến đấu bất tận trên vùng đất lửa phương Nam. Dẫu sống vô cùng nguy biến đau thương như hằng hằng những đoàn người chạy loạn cộng sản-Từ cuộc di cư vĩ đại năm 1954 rời bỏ Miền Bắc; lần chạy nạn Tổng Công Kích Mậu Thân 1968; cảnh Mùa Hè Đỏ Lửa suốt ba vùng đất nước năm 1972, và lần oan khốc uất hận khi mất Cao Nguyên từ ngày 10 tháng 3, 1975 để đến hôm nay hiện thực với hai triệu người có mặt ở hải ngoại ố Những NGƯỜI VIỆT TY. NẠN CỘNG SẢN ĐỂ THỰC HIỆN Ý NIỆM CỘNG HÒA. Vậy, chúng ta phải khẳng định lại thêm một lần: Lá Cờ Vàng - Danh Hiệu Cộng Hòa là sức mạnh chuyển giòng đấu tranh xuyên suốt lịch sử từ những lần vị quốc vong thân sáng ngời trung liệt của Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương khi thành mất; của Trương Công Định, liệt sĩ Vàm Láng, Gò Công; của Nguyễn Trung Trực với chiến công vang động giòng Vàm Cỏ, Long An: "Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa. Kiếm bạc Kiên Giang khốc quỷ thần", cho đến lần Cờ lên trên Kỳ Đài Cố Đô Huế, sáng Mùa Xuân Mậu Thân, 24 tháng Hai, 1968..

Quân dân ta nên một lần bật khóc
Khi lá Cờ Vàng Ba Sọc
Lừng lững lên cao
Giữa mờ sương xứ Huế sáng Xuân nào!

Danh hiệu Cộng Hòa bao gồm trong lời hô uy dũng của mười ba Liệt Sĩ Quốc Dân Đảng "Việt Nam Độc Lập Muôn Năm" nơi Yên Bái, sáng sông núi gờn gợn đau thắt, 17 tháng 6, 1930, không khác ý niệm quyết tử "Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm" của trung đội lính Nhảy Dù do Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái chỉ huy, đã chọn giây phút báo đền ân nghĩa quê hương với chính xác thân mình nỗ tung bởi trái lựu cuối cùng, buổi sáng 30 tháng Tư, 1975 nơi bùng binh Ngã Sáu, Chợ Lớn. Danh hiệu Cộng Hòa linh thiêng kia đã bừng lên soi rạng khoảng trời đất u tối sáng 29 tháng 4, 1975 khi chiếc Hỏa Long C119 của Trung Úy Nguyễn Văn Thành bốc cháy trên không gian Tân Sơn Nhất, Gia Định. Và giá trị Cộng Hòa mải mải tồn tại trong thanh âm quyết liệt của Hồ Ngọc Cẩn, Trần Văn Bá khi đối diện với nòng súng của trung đội hành hình. Chúng ta hôm nay cũng tương tự tình cảnh của những người Việt lưu vong đầu thế kỷ ở Sa Khôn, Thái Lan, với tất lòng đau xót như đã một lần được Tú Tài Đặng Thúc Hứa, đồng chí của nhị vị tiền bối Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh diễn dạt khi nhớ về quê nhà đang trong cơn điêu linh nhục thãm:

Vùng Quê Hải, gió tanh mưa máu, án ba đào vì tình thế xui nên.
Cõi Viêm Bang, núi thịt cồn xương, nỗi bi thảm xưa nay chưa có.
Ngoài ngàn dặm trông về cố quốc,
Non sầu bể thảm, quặn ruột gan chín khúc tơ vò.
Cuộc trăm năm tưởng tới đồng tâm,
Cỏ úa hoa dàu, dẫu sắt đá cũng hai hàng lệ nhỏ.

Nỗi Đau cào xé nầy luôn bừng bừng cùng mối Ước Nguyện sắc son - Lần dựng lên trong nắng Miền Nam mầu uy nghi rực rỡ Cờ Vàng, và câu hát đã một lần vang động núi sông lẫm liệt cảm động ánh sáng vĩnh cửu Cộng Hòa.

Cờ bay! Cờ bay!
Trên thành phố thân yêu

Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu!! CHÚNG TA PHẢI HÁT LẠI THÊM MỘT LẦN CÂU HÁT BI HÙNG NẦY TRÊN TOÀN CÕI QUÊ HƯƠNG

Viết để nhắn nhở, vững tin Nghĩa Lớn - Việt Nam Cộng Hòa
26 Tháng Mười, 1955 — 26 Tháng Mười, 2002.
Phan nhật Nam

Saturday, June 21, 2008

Tưởng Niệm Ngày QLVNCH 19/06/2008


Vinh Danh Đoàn Nữ Quân Nhân
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa






Friday, June 20, 2008

Lễ Thượng Kỳ ngày QLVNCH 19/06

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/06/2008
tại công viên Cabra Vale Park
Cabramtta, Sydney NSW









Trần Văn Thinh

Wednesday, June 11, 2008

Giữ Vững Lằn Ranh Quốc Cộng

Thưa qúy chiến hữu và qúy đồng hương, dưới đây là một phần trong những ý kiến đóng góp cho Đại Hội Toàn Cầu lần thứ 16 cùa các Cựu SVSQ Trường Võ Bị Quốc Gia (tổ chức 2 năm 1 lần). Trên nguyên tắc, bài này chỉ phổ biến trong sinh hoạt nội bộ của tập thể Võ Bị, nhưng tôi thấy những nhận định này không những chỉ có giá trị và áp dụng cho 1 tập thể Võ Bị nhỏ bé thôi, mà có thể cũng sẽ đóng góp được phần nào vào công cuộc đấu tranh của cộng đồng người Việt Tỵ Nạn CS , vì vậy sau khi được sự chấp thuận của Tác giả Nguyễn Quốc Đống, Cựu SVSQ Khoá 13 và của Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Cựu SVSQ/TVBQGVN, xin được chuyển tới quý chiến hữu và qúy đồng hương bài nhận định "GIỮ VỮNG LẰN RANH QUỐC CỘNG ..."

huan23

Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA CSVSQ NGUYỄN QUỐC ĐỐNG, K.13 GỬI ĐẾN ĐẠI HỘI KỲ THỨ 16 CỦA TỔNG HỘI CSVSQ/TVBQGVN (NGÀY 5-6 THÁNG 7, 2008 TẠI SAN JOSE, CALIFORNIA

GIỮ VỮNG LẰN RANH QUỐC CỘNG, PHÂN BIỆT RÕ BẠN THÙ ĐỂ ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC TRANH ĐẤU CHO TỰ DO, DÂN CHỦ TẠI QUÊ NHÀ

Tranh đấu cho 1 nước Việt Nam tự do dân chủ hầu mang lại hạnh phúc cho người dân là niềm mơ ước của mọi người dân Viê.t. Khi tình nguyện vào trường Võ Bị đại đa số chúng ta cũng mang niềm mơ ước này và chọn binh nghiệp làm phương tiện để thực hiện hoài bão to lớn đó. Trách nhiệm của người trai thời loạn cũng góp phần vào sự chọn lựa đầy ý nghĩa này của chúng ta. Chúng ta muốn trực diện cùng kẻ thù trên các trận địa, chặn đứng làn sóng tấn công của chúng trên chiến trường để bảo vệ nếp sống tự do và an bình cho người dân trên mảnh đất cuối cùng của chúng ta là miền Nam Việt Nam. Kẻ thù của chúng ta không phải là bọn ngoại xâm mà chính là những người cùng chung một huyết thống, cùng dòng giống Việt, cùng nói một ngôn ngữ, từng có chung 1 nền văn hóa. Nhưng những người anh em này chọn lựa chủ nghĩa ngoại lai Mác- Lênin, mơ ước xây dựng 1 chế độ xã hội chủ nghĩa để tiến đến chế độ Cộng sản mà họ từng mơ ước. Lãnh tụ của những người Cộng sản này là Hồ Chí Minh, người đem học thuyết Mác- Lê áp đặt lên dân tộc Việt và kể từ đó đất nước ta chìm đắm trong chiến tranh và nhân dân phải chịu muôn ngàn thống khổ. Vì vậy tuy cùng là dân 1 nước nhưng người Việt đã chia thành 2 phe rõ rệt: 1 phe “Cộng sản” quyết thực hiện “3 dòng thác cách mạng” tại quê nhà bằng mọi giá: cách mạng giải phóng dân tộc (nói là để giành độc lập khỏi sự thống trị của ngoại bang), cách mạng dân chủ, nhân dân (giành lại quyền làm chủ về chính trị cho người dân) và cách mạng vô sản (tiêu diệt giai cấp tư sản bóc lột). Giấc mơ của người Cộng sản là 1 thế giới đại đồng với tất cả các quốc gia đều là anh em cùng tin tưởng ở chủ thuyết Mác- Lênin. Ranh giới các quốc gia sẽ không còn, gia đình phải lùi bước trước xã hội và tôn giáo cũng sẽ không còn chỗ đứng vì đã có "ánh sáng Mác-Lê" thay thế. Ý thức được chủ thuyết ngoại lai này một khi được hình thành sẽ tiêu diệt toàn bộ nếp sống tự do, dân chủ của người dân và tiêu diệt toàn bộ nền văn hóa dân tộc đã hình thành trong nhiều ngàn năm qua, cả triệu dân miền Bắc đã di cư vào miền Nam và cùng nhân dân miền Nam góp công xây dựng 1 quốc gia không Cộng sản là Việt Nam Cộng Hòa.

Chế độ VNCH tuy chỉ đứng vững được 21 năm nhưng đã tỏ rõ là 1 chế độ nhân bản tôn trọng các quyền tự do căn bản của con người, đem lại cơm no, áo ấm cho người dân dù phải đương đầu với thù trong, giặc ngoài. Trong cuộc chiến chống Cộng sản miền Bắc xâm lược, 1 số chúng ta đã không giữ được lằn ranh Quốc-Cộng nên đã để cho kẻ thù xâm nhập được vào phòng tuyến của chúng ta, lung lạc ý chí chiến đấu của chúng ta và sau cùng lũng đoạn hàng ngũ của chúng ta. Cùng với một số yếu tố bất lợi khác của hoàn cảnh lịch sử, chúng ta đã bị bắt buộc phải buông súng, chấm dứt cuộc chiến khi trách nhiệm chưa hoàn thành, ước mơ chưa thực hiê.n. Đó chính là nguyên nhân thúc đẩy người cựu SVSQVB tỵ nạn Cộng Sản hiện đang định cư ở các nước từ hơn 30 năm qua vẫn tiếp nối công cuộc chống Cộng còn dở dang.

Cuộc chiến Quốc- Cộng chỉ chấm dứt trên các trận địa nhưng hòa bình thực sự thì không có và sự hòa giải dân tộc chưa bao giờ xảy ra. Cộng Sản VN trong tư thế của kẻ thắng trận đã thi hành 1 chính sách trả thù vô cùng tàn độc đối với những người mà chúng rêu rao là “được giải phóng”. Chúng ta là 1 trong các đối tượng chịu những đòn thù thâm độc nhất. Nhiều người trong chúng ta đã phải trải qua tuổi thanh xuân trong các trại lao cải ở khắp các vùng xa xôi từ Nam chí Bắc. Nhiều người bị thủ tiêu, tra tấn, đánh đập dã man hoặc chết vì đói rét, bệnh tật. Nhưng nhiều người trong chúng ta cũng còn may mắn trở về được từ những địa ngục trần gian này. Nhờ bàn tay bao dung của thế giới tự do chúng ta tìm được 1 mái ấm gia đình mới cho bản thân và gia đình. Chúng ta được hít thở không khí tự do và được sống với phẩm giá của 1 con người. Những điều này vẫn chỉ là 1 ước mơ đối với đa số người dân Việt tại quê nhà hiện nay. Vậy chúng ta có thể nào tự bằng lòng với những gì mình đang được thụ huởng, cho rằng mình chiến đấu đã quá đủ và trả giá cũng đã quá đủ hay không? Chúng ta có thể thờ ơ với những gì đang xảy ra cho đồng bào tại quê nhà và dửng dưng với những nỗ lực của đồng hương tỵ nạn Cộng Sản đang tranh đấu chống sự xâm nhập của Cộng Sản ngay tại mảnh đất trú thân cuối cùng của chúng ta và con cháu hay không? Đã hơn 30 năm sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay quân Cộng Sản miền Bắc xâm lược, lằn ranh Quốc-Cộng vẫn còn đậm nét trong lòng những người Việt quốc gia yêu nước, yêu tự do, dân chủ. Họ không thể nào chấp nhận hòa hợp, hòa giải với Cộng Sản vì những người này chưa bao giờ thực lòng chấp nhận những ai đi ngược lại đường lối, chính sách của họ. Có thể nói Quốc gia và Cộng Sản là 2 phe đối nghịch nhau như nước và lửa.

Một số người cho rằng Cộng Sản đã thay đổi rồi nên đâu cần phải chống chúng. Họ chỉ nhìn thấy sự thay đổi ở cái bề mặt hào nhoáng, các tụ điểm ăn chơi tấp nập, các khách sạn 5 sao sang trọng, các số tiền đầu tư to lớn được đổ vào thị trường kinh tế VN để rồi thấy phấn khởi cho tương lai của đất nước và dân tộc. Họ không ý thức được rằng chỉ có 1 thiểu số cán bộ cầm quyền và bè lũ tay sai được hưởng phúc lợi của những món tiền đầu tư to lớn này, còn đại đa số dân thường vẫn sống trong lầm than, nghèo đói và đất nước đang dần dần mất đi sự độc lập và chủ quyền quốc gia vì CSVN lợi dụng vị thế độc tôn của mình để cắt đất, dâng biển cho đàn anh Trung Cộng. Họ không thấy được đằng sau nếp sống xa hoa kia là cả 1 thế giới tối tăm vô vọng của những gia đình phải để con gái bán thân và để con trai bán sức lao động tại nước ngoài. Cộng Sản Việt Nam có thể thù chúng ta là những kẻ bỏ nước ra đi nhưng chúng cũng chẳng đem lại cuộc sống ấm no gì cho người dân trong nước, chẳng độc lập, không tự do và tất nhiên cũng không có hạnh phúc nữa. Cuộc chiến Quốc-Cộng giờ đây là cuộc chiến của những người yêu chuộng tự do, dân chủ và những tội đồ của dân tộc: những kẻ buôn dân, bán nước với lòng tham vô đáy: tham quyền, tham tiền, tham danh, tham lợi ….

Chúng ta có đủ tư cách tham gia cuộc chiến Quốc-Cộng này hay không? Thứ nhất đây vẫn là trách nhiệm của chúng ta, những người trai tự nguyện đem tuổi trẻ và nhiệt huyết cống hiến cho đất nước và dân tộc, quyết tâm xây dựng 1 nước Việt Nam tự do, dân chủ, những lý tưởng cao cả của con người. Thứ hai, chúng ta được hoàn cảnh tạo cho mình những điều kiện thuận lợi để tôi luyện ý chí, rèn luyện kỹ năng. Thời gian quả đã khiến nhiều anh em trong chúng ta nhụt mất ý chí và mất định hướng tranh đấu nhưng số anh em chúng ta còn nuôi dưỡng được nhiệt huyết với quốc gia, dân tộc không phải là nhỏ. Một số bạn tương đối còn trẻ còn có cơ hội trở lại trường học tiếp bậc đại học và học lên đến cao học hay tiến sĩ. Đây là những thành phần chất xám rất đáng quý của chúng ta. Nếu chúng ta biết sử dụng những tri thức thu nhập được tại xứ sở tạm dung này vào công cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ tại quê nhà, cuộc tranh đấu này sẽ có 1 luồng gió mới và chắc chắn sẽ đạt được nhiều thành quả hơn trong tương lai. Điều quan trọng là tổ chức của chúng ta biết xây dựng cho tập thể chúng ta 1 ý thức trách nhiệm đúng đắn, 1 lý tưởng vững mạnh để chống lại sự tuyên truyền nguy hiểm của kẻ thù. Còn nếu chúng ta không còn trẻ nữa thì mình vẫn còn có thể đóng góp cho công cuộc tranh đấu chung bằng các kinh nghiệm quý giá của bản thân. Sự hướng dẫn đứng đắn của các bậc đàn anh luôn luôn là những bài học quý báu đem lại niềm tin cho thế hệ đàn em và cho các cháu Thanh Thiếu Niên Đa Hiệu.

Một điều nữa chúng ta không thể quên được là dù chúng ta có dễ dãi với kẻ thù và muốn quên đi quá khứ để yên thân với hiện tại, chúng cũng không để chúng ta yên thân. Chắc chúng ta chưa quên những lời nói miệt thị mà CSVN dành cho những người bỏ trốn khỏi chế độ của chúng. Chúng coi những người di tản khỏi đất nước khi miền Nam rơi vào tay CS tháng 4 năm 1975 hay những người vượt biên sau này là “thành phần cặn bã của xã hội, chạy theo đế quốc để hưởng bơ thừa, sữa cặn”. Ngày nay, chứng kiến sự thành công của họ tại hải ngoại, chúng lại muốn khống chế người Việt hải ngoại để họ đem tiền bạc về cho chúng hưởng lợi. Cuộc tranh đấu của chúng ta bước sang 1 trang mới, với những khó khăn mới. Kẻ thù của chúng ta bây giờ dùng những thủ đoạn gian manh, tinh vi hơn để mong đánh lừa chúng ta 1 lần nữa. Chúng ta còn gặp nhiều khó khăn hơn xưa vì ngoài kẻ thù rõ mặt là bọn cán bộ CS, chúng ta còn phải đối phó với “nội thù”. Bọn này còn nguy hiểm và khó thắng hơn cả bọn cán bộ CS vì chúng nằm ngay trong hàng ngũ của chúng ta. Chúng biết ta mà có khi ta không biết được những âm mưu của chúng. Chúng phá ta mà đôi khi ta cứ tưởng chúng là bạn nên không đối phó được. Đến khi chuyện xảy ra và biết được kẻ thù là ai thì mọi chuyện đã quá trễ: tác hại đã xảy ra, lực lượng bị tiêu hao và sự đoàn kết đã mất đi nhiều.

Nhìn vào tình trạng của cộng đồng người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại hiện nay chúng ta phải công nhận 1 trong những nhược điểm của chúng ta là quá dễ dãi trong vấn đề phân biệt bạn-thù, không giữ vững lằn ranh Quốc-Cộng nên đã để mất định hướng, không tập họp đúng lực lượng và để kẻ thù len lỏi quá sâu vào hàng ngũ chống Cộng. Trong nhiều năm chúng ta còn nuôi dưỡng cho kẻ thù của chúng ta lớn mạnh để sau này khi có điều kiện thuận lợi chúng không ngần ngại phá hoại hàng ngũ của chúng ta. Hãy nhìn vào các hiện tượng như tuần báo Việt Weekly công khai ca tụng CSVN, nhật báo Người Việt tại Nam California ca tụng lãnh tụ CS và nhục mạ quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, ca sĩ hải ngoại tổ chức chương trình ca nhạc để tưởng niệm Trịnh Công Sơn, tên Cộng Sản nằm vùng nguy hiểm, kẻ đã dùng những dòng nhạc ủy mị, phản chiến để lung lạc ý chí tranh đấu chống Cộng của quân dân miền Nam, các tăng sĩ chủ trương cộng tác với bạo quyền để được an thân hành đạo, làm việc thiện, làm văn hóa và công khai chống lại các tăng sĩ chủ trương phải tranh đấu để có tự do tôn giáo đích thực. Hãy nhìn vào các thương gia sống và làm giàu nhờ vào đồng hương tỵ nạn CS nay quay sang bắt tay với kẻ thù để thủ lợi nhiều hơn. Hãy nhìn quanh ta để thấy không thiếu gì những ca sĩ về nước ca hát đánh bóng cho bạo quyền CS và nói xấu đồng bào hải ngoại … Những kẻ đón gió, trở cờ loại này càng ngày càng nhiều.

Chúng ta có nên thất vọng và buông tay đầu hàng hay không khi hoàn cảnh cho thấy chúng ta gặp rất nhiều bất lợi trong 1 cuộc chiến không cân sức như hiện nay? Kẻ thù của chúng ta nắm trọn quyền hành trong 1 đất nước thống nhất nên tài nguyên, nhân lực đều quy về 1 mối. Kẻ thù của chúng ta lại gian ác và sẵn sàng thi hành mọi thủ đoạn hiểm độc để lũng đoạn hàng ngũ của chúng ta. Chúng dùng hết nghị quyết này đến nghị quyết khác để khống chế hơn 3 triệu người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại tuy chỉ là thiểu số so với hơn 80 triệu dân trong nước nhưng có 1 ý chí kiên cường và 1 tấm lòng tha thiết với tiền đồ của đất nước. Thực tế cho chúng ta thấy dù phải đối phó với mọi âm mưu thâm độc của CS và tay sai (bọn Việt gian sẵn sàng thi hành kế sách của CS để phá hoại sự đoàn kết và làm tiêu hao lực lượng của chúng ta), chúng ta vẫn kiên quyết không lùi bước trước sự tấn công và phá hoại của chúng. Sự kiện Trần Trường năm 1999 tại Nam California là 1 tập họp ngoạn mục của những người dân không chấp nhận sự hiện diện của các biểu tượng CS tại thủ đô của người Việt tỵ nạn CS tại Hoa Kỳ. Chiến dịch vinh danh cờ VNCH tại nhiều tiểu bang, các quận hạt và thành phố tại Hoa Kỳ cho thấy ý chí cương quyết bảo vệ căn cước tỵ nạn của chúng ta. Các công trình xây dựng các đài tưởng niệm chiến sĩ để nêu cao chính nghĩa quốc gia và vinh danh các anh hùng tử sĩ vị quốc vong thân tại các cộng đồng có đông dân Việt tỵ nạn CS chứng tỏ chúng ta không quên lịch sử tỵ nạn CS của cộng đồng người Việt. Và mới đây nhất cuộc tranh đấu trường kỳ của đồng hương San Jose để bảo vệ danh xưng Little Saigon cho 1 khu thương mại của người Việt, đồng thời cũng là để bảo vệ căn cước tỵ nạn chính trị chống lại sự lạm quyền của 1 số chức sắc dân cử có hành động phản dân chủ và có biểu hiện phục vụ cho những kẻ làm hại cho công cuộc chống Cộng của chúng ta. Đây là những thành quả đáng trân trọng trrong cuộc chiến Quốc –Cộng hiện nay.

Lý tưởng mà chúng ta chọn lựa là 1 lý tưởng đúng đắn. Tranh đấu cho Việt Nam có tự do, dân chủ thực sự là trách nhiệm của tất cả mọi công dân yêu nước. Muốn thế chúng ta phải có ý chí vững mạnh, có quyết tâm cao độ và phải chịu hy sinh. Không có thành quả nào có thể đạt được mà không tốn mồ hôi, nước mắt và có khi cả xương máu nữa. Nhưng có những sự hy sinh chúng ta không thể từ chối được nếu đó là giá phải trả cho một cuộc sống có phẩm giá, cho sự trường tồn của 1 nền văn hóa và sự sống còn của 1 dân tộc. Trong cuộc tranh đấu trường kỳ Quốc- Cộng này, chúng ta cần khắc phục 1 nhược điểm lớn: đừng coi thường kẻ nội thù, phải biết nhận diện và cô lập bọn người này để thanh lọc hàng ngũ và giữ vững sự đoàn kết. Chúng ta hẳn còn nhớ chuyện An Dương Vương ngày xưa mất cả vươngï nghiệp không vì kẻ ngoại xâm mà chính vì kẻ nội thù. Chính con gái của nhà vua đã vô tình giúp kẻ thù làm sụp đổ cơ nghiệp của phụ vương khiến đất nước rơi vào sự thống trị của ngoại bang. Biết được kẻ nộâi thù là ai, nhà vua đã can đảm vung gươm giết ngay, dù đó là con gái của chính mình. Trong hàng ngũ các cựu SVSQ Võ Bị, chúng ta không thiếu các tấm gương sáng sẵn sàng hy sinh vì cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ tại quê nhà. Nhưng nếu các hoạt động của các cá nhân hay các hội địa phương được nhân lên thành 1 phong trào và Tổng Hội mạnh dạn hỗ trợ cho các hoạt động đúng đắn phù hợp với tôn chỉ của TH thì kết quả đạt được sẽ nhiều hơn và có ý nghĩa hơn. Chúng ta cần đoàn kết các thành phần cùng chung ý chí nhưng cương quyết loại trừ các thành phần có tư tưởng yếm thế, chủ bại, có hành động gây hại cho công cuộc tranh đấu chống Cộng của chúng ta.

Nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam hiện nay sau hơn 30 năm Đảng Cộng Sản Việt Nam thống trị đất nước, tôi thiết nghĩ tập thể cựu SVSQVB cần tạo 1 sự đoàn kết lớn mạnh, thống nhất ý chí để cùng nhau hành động hữu hiệu trong cuộc chiến Quốc-Cộng đang tiếp diễn gay gắt hiện nay tại hải ngoa.i. Ban Chấp Hành Tổng Hội cần sáng suốt và chủ động trong việc lãnh đạo các hội địa phương để các cựu SVSQVB được tập họp thành 1 khối vững chắc biết hành động đúng đắn để có thể đạt được những mục tiêu cao đẹp do Tổng Hội đề ra. Lịch sử đã chứng minh Hồ Chí Minh và tay sai của ông ta là các tội đồ của dân tộc, quá trình hoạt động của Đảng CSVN là 1 quá trình dối trá, lường gạt nên chúng ta không thể để bị chúng lừa thêm 1 lần nữa. Chúng ta dứt khoát không chấp nhận hòa hợp, hòa giải với Cộng Sản như bè lũ tay sai của CS đang nỗ lực tuyên truyền, vận động mà phải dứt khoát tư tưởng và kiên trì trong cuộc chiến Quốc-Cộng hiện nay. Góp 1 phần trong cuộc chiến này, chúng ta có thể hãnh diện mình đã tiếp tục sống theo lý tưởng của người cựu SVSQ/TVBQGVN.

Nguyễn Quốc Đống, K.13
Tháng 4, 2008

Tuesday, June 10, 2008

Ngày Quân Lực của Một Chiến Binh

Giao Chỉ,
San Jose



Ngày 19 tháng 6-2008 nhằm ngày thứ năm. Tính từ ngày kỷ niệm quân lực lần thứ nhất vào năm 1965 đến nay đã được 43 năm. Vào thời gian đó, các niên trưởng đàn anh của chúng tôi đã lấy ngày tướng lãnh lên nắm chính quyền, sau thời gian đất nước xáo trộn, để gọi là Ngày Quân Lực. Vì vậy cái ý nghĩa nguyên ủy của nó xem ra cũng gượng ép, nhưng tinh thần của ngày Quân lực Việt Nam Cộng Hòa cũng không vì thế mà coi nhẹ. Anh em nhà binh dù là quân binh chủng nào, và ngay cả địa phương quân, nghĩa quân, cán bộ nông thôn cũng đều là chiến sĩ của miền Nam,Việt Nam. Dù là Thủ Đức, Đà Lạt, hay Quang Trung, Đồng Đế, súng đạn nào có tránh aị Máu ai đổ cũng là máu đàọ Khi anh nằm xuống thì hồ sơ tử tuất đều cùng 1 mẫu như nhaụ Không tin các bạn nghe tôi kể câu chuyện sau đây:

Tôi vừa nhận được gói quà. Đây là món quà của tháng 6 mà niên trưởng Trung tá Nữ quân nhân có cái tên rất đẹp đẽ đã gửi cho tôị Xin lắng nghe lời của chị Hạnh Nhơn qua bức thơ của mùa quân lực năm 2008, từ Garden Grove, Nam Californiạ

Xin gửi anh Vũ văn Lộc,

Như đã thưa với anh hôm trước qua điện thoại, nay tôi xin gởi đến anh tất cả những tài liệu, di vật kỷ niệm của tử sĩ LÊ VĂN TRÍ mà bà quả phụ NGUYỄN THỊ A đã cất giữ từ mấy chục năm quạ Trước tấm lòng chung thủy và quả cảm của bà, tôi phải nghiêng mình kính phục. Bà đã lưu giữ những giấy tờ nầy trong nhà hơn 30 năm. Việt Cộng mà thấy được thì bà làm sao yên thân?

Càng đọc mấy quyển sổ tay của anh Lê văn Trí, càng cảm phục sự trung kiên của một Cán bộ Phát triển nông thôn. Con người mình tưởng là bình thường, đã ghi từng chi tiết những công tác hằng ngày. Chứng tỏ sự đóng góp không nhỏ trong cuộc chiến Quốc Cộng đã qua ...

Anh Lê văn Trí đi vào lịch sử cùng với những anh hùng tử sĩ hữu danh và vô danh đã hy sinh cho Tổ quốc chúng tạ Phải chăng anh đã chết oan uổng. Vì cuộc chiến đã tàn, mà người hiền lương lại thua kẻ gian ác ... Thật tội nghiệp!

Tôi đã chụp photo để làm hồ sơ cất giữ ở Hội chúng tôi. Cũng gởi giấy tờ cần thiết trả lại cho bà A.

Xin gửi anh các bản chính để lưu trữ vào Viện Bảo Tàng.

Thành thật cám ơn anh.

Rất quý mến,

Nguyễn thị Hạnh Nhơn

Sau đây là các chứng từ gửi cho Viện Bảo tàng Thuyền Nhân và VNCH tại San Jose:



Giấy ban khen, giấy khai tử, Nghị định của nha Hưu Bổng và Cấp Dưỡng, bản Trích lục Tư pháp số 3. Bản sao thẻ căn cước, sổ cấp dưỡng quả phụ, sổ trang bị cán bộ PTNT, bản nội quy khóa sinh, thẻ động viên tại chỗ. Phiếu trả thù lao, thẻ căn cước thẻ công vụ, 3 quyển sổ tay cán bộ Phát triển Nông thôn, ghi công tác năm 1973.

Tấm lịch năm 1972 có hình Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, Giấy chứng chỉ của Đoàn Cán bộ Phát triển Nông thôn. Thẻ đoàn viên giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo, tấm hình của bà quả phụ Nguyễn thị A trước bàn thờ của chồng, gói huy hiệu, phù hiệu và cờ VNCH.

Tất cả giấy tờ gửi đến cho viện Bảo tàng đều là bản chính.

Chị Hạnh Nhơn thân mến!

Tôi đã 75 tuổi nhưng vẫn làm việc đến 2 giờ sáng mỗi đêm. Tưởng là mình đã ngon lành. Nhưng bà niên trưởng đất thần kinh của tôi đã ngoài 80 mà vẫn còn thức để đọc 3 cuốn sổ tay của cán bộ xây dựng nông thôn Lê văn Trí thì quả thực chúng tôi hết sức ngưỡng mộ.

Bây giờ cũng đã quá nửa đêm của tháng 6-2008. Theo lời chị yêu cầu, chúng tôi đã đọc toàn bộ hồ sơ và xin báo cáo niên trưởng Hạnh Nhơn và các bạn bốn phương biết là chúng tôi đã tìm thấy những chuyện gì.

Giấy ban khen của Đại tá Tỉnh trưởng Chương Thiện số 21 ký ngày 12 tháng 1 năm 1974 long trọng tuyên dương Cán bộ Phát triển nông thôn xã Vĩnh Bình tên là Lê văn Trí. Người ký tên là Hồ ngọc Cẩn. Hai tháng sau, đêm 18 tháng 3-1974 thì anh chàng cán bộ xuất sắc của tỉnh Chương Thiện tử trận. Và chúng ta ai cũng biết. Một năm sau đến phiên đại tá Hồ ngọc Cẩn bị Việt Cộng xử bắn tại Chương Thiện. Lê văn Trí đã chiến đấu đến phút cuối cùng tại quận Vĩnh Bình. Hồ ngọc Cẩn cũng chiến đấu đến phút cuối cùng tại thị xã Chương Thiện.

Tất cả hồ sơ tử tuất và cá nhân của anh Trí vẫn còn được người vợ lưu giữ đầy đủ hơn ba mươi năm qua.

Lê văn Trí chết đêm 18 tháng 3-74, vợ con sẽ được chính thức lãnh tiền tử tuất kể từ ngày 19/3/1974.

Nhưng phải chờ đến ngày 20 tháng 6-74 hồ sơ mới hoàn tất và gia đình được truy lĩnh. Tổng cộng $26,960 đồng Việt Nam. Theo hối xuất thời đó vào khoảng 27 mỹ kim. Sau đó gia đình còn được lãnh thêm 2 kỳ, mỗi kỳ $20,000 đồng. Lần cuối cùng là ngày 30/1/1975.

Cuốn sổ cấp dưỡng quả phụ có ghi rõ 4 loại chiến binh đều là chiến sĩ Việt Nam Cộng hòạ Chủ lực quân, Địa phương quân, Nghĩa quân và Cán bộ Xây dựng nông thôn. Khi còn sống các anh mặc quần áo khác nhau, chiến đấu khác nhau, nhưng khi chết tất cả đều chung một loại hồ sơ tử tuất. Tất cả đều do Nha hưu bổng của bộ Cựu chiến binh quản trị. Một nghị định của bộ Cựu chiến binh cũng ghi rõ, con gái út của Lê văn Trí là Lê thị Diễm Thúy sinh ngày 2/12/1973. Lúc bố chết em mới có 3 tháng. Việt Nam Cộng Hòa cam kết sẽ phát tiền cấp dưỡng cho em đến ngày 1 tháng 12 năm 1991. Khi em Diễm Thúy 18 tuổị Trong số giấy tờ còn lưu lại, có mảnh giấy đỏ ghi nhận cán bộ Lê văn Trí lúc còn sống lãnh lương mỗi tháng từ 12 đến 14 ngàn đồng. Tương đương hơn10 mỹ kim. Vợ anh vẫn còn cất giữ những huy hiệu bằng vải để may vào quần áo cán bộ gồm có tấm hình tròn, bản đồ Việt Nam có chữ Tổ quốc Nhân Dân. Hai ngành lúa bọc 2 bên. Đây là huy hiệu chính thức của Cán bộ Xây dựng nông thôn. Ba huy hiệu thêu hình cờ quốc gia, cũng để may trên tay áọ Một huy hiệu tổ quốc học đường, có thể dành cho đứa con lớn của gia đình đã đi học.

Tấm hình của tổng thống Nguyễn văn Thiệu in lịch năm Nhâm Tý 1972. Phía dưới có ghi lời nói của ông đề ngày 31/10 /1971. Nguyên văn như sau:

"Nguyện vọng thiết tha duy nhứt của tôi là sớm đem lại cho Nhân Dân miền Nam Hòa Bình và bảo đảm được Tự Do, No Ấm cho đồng bào ".

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Và di vật hết sức đặc biệt là 3 cuốn sổ tay của cán bộ. Mỗi cuốn dành cho cán bộ ghi lại trong 3 tháng của năm 1973. Cuốn II, tháng 4,5,6. Cuốn III, tháng 7,8,9 và cuốn IV, tháng 10,11,12. Không có cuốn I, có thể đã thất lạc.

Chính các thành tích được ghi lại trong năm 1973 đã đưa đến bản tuyên dương cho cán bộ Lê văn Trí do tỉnh trưởng Hồ ngọc Cẩn ký tên đầu năm 1974.

Xin các bạn hãy cùng tôi đọc 1 trang nhật ký. Sổ tay in sẵn ngày tháng với 4 điều cán bộ phải ghi mỗi ngàỵ

A. Khu vực trách nhiệm?

B. Công tác giao phó?

C. Kết quả?

D. Đề nghị và trở ngạỉ

Sau đây là phần ghi chép của Lê văn Trí:

Ngày 11 tháng 6 - 1973 tức 11 tháng 5 (thiếu) năm Quý Sửụ

A. Trách nhiệm: ấp Bình Phong, Vĩnh Bình.

B. Công tác: Chống trả Việt Cộng tấn công.

C. Kết quả : Anh xã đoàn trưởng tử thương. Việt Cộng 2 chết bỏ xác tại chỗ.

D. Trở ngại: Không.

Và ngày tiếp theo: 12/6/73

A. Trách nhiệm:Trực tại văn phòng đoàn.

B. Công tác: Sửa lại hố cá nhân.

C. Kết quả: Sửa xong hố cá nhân.

D. Trở ngạỉ : Không.
. . . . . . . . . . . . . . . . . .

Vâng, Thưa quý vị, đọc lại cuốn sổ tay của Lê văn Trí sau hơn 30 năm, chúng ta có thể hình dung ra cả một chân trời cũ hết sức đau thương của nông thôn Việt Nam trong chiến tranh.

Nhắc đi nhắc lại vỏn vẹn chỉ có 4 điềụ

A: Hôm nay làm gì?

Hôm nay tổ chức cho các em học sinh hát.

B. Công tác ra sao?

Tình hình mất an ninh, không tập hát được.

C. Kết quả?

Việt Cộng bắn chết 1 cán bộ và 1 anh bị thương.

D. Có trở ngại đề nghị gì không?

Không

Những hàng chữ đơn giản và mộc mạc biết là bao! Tình hình mất an ninh khiến các em không tập hát đựơc. Một cán bộ bị chết, một bị thương nhưng vẫn không có gì đề nghị, cũng không có gì trở ngại.

Một ngày khác:

A. Hôm nay làm gì?

Về lại ấp Bình Phong.

B. Công tác giao phó?

Không có công tác. Nghỉ phép vợ sanh.

C. Kết quả công tác?

Vợ chưa sanh.

D. Trở ngạỉ

Không.

Ngày 6-11-73 tức 1-10 Nhâm Tý:

A. Ở đâu?

Hôm nay công tác tại Kinh II

B. Làm gì?

Dẫn Thiếu nhi nông thôn đi Kinh II huấn luyện.

C. Kết quả?

Niềm vui trong phấn khởi.

D. Trở ngạỉ

Không.

Một ngày khác:

A. Ở đâu?

Trường học ấp Vĩnh tây.

B Làm gì?

Phối hợp với toán Chiêu Hồi, Tâm lý chiến hướng dẫn đồng bào học tập về hòa bình, ngưng bắn.

C. Kết quả?

Tập hợp được 70 người học tập về Hòa Bình.

D. Trở ngạỉ

Không. Ai cũng đã hiểu về Hòa Bình.

xx

Gửi chị Hạnh Nhơn và quý độc giả,

Tôi ngồi đọc 3 cuốn sổ tay của cán bộ đã ghi lại suốt năm 1973. Anh Lê văn Trí ngày đêm hoạt động tại vùng Vĩnh Bình, Chương Thiện. Công tác quanh năm. Sinh hoạt, thăm viếng, đào hố, trực gác và chiến đấụ Lúc 1 mình, lúc có thêm vài người trong đoàn. Không tháng nào là không chiến đấụ Tháng nào cũng có người hy sinh. Trải qua hàng trăm ngày, luôn luôn ở đoạn cuối anh không hề ghi dù chĩ 1 lần các trở ngạị Tất cả đều ghi là " dô sự " Học tập cũng " dô sự ". Trực máy cũng " dô sự " và thậm chí địch bắn giết chết người, sau cùng mọi sự đối với anh cán bộ hiền lành của chúng ta cũng " dô sự ". Anh không đề nghị hay than thở gì cả.

Những tháng cuối của cuộc đời, Cán bộ xây dựng nông thôn Lê văn Trí thường tham dự công tác học tập về ngưng chiến. Anh tin tưởng ở Hòa Bình, bởi vì anh vừa chiến đấu vừa làm ruộng.

Hai vợ chồng, tám đứa con, quanh quẩn ở đất Vị Thanh, Vĩnh Bình, Chương Thiện. Tuy có chiến đấu nhưng làm ruộng vẫn thành thạo hơn cầm súng.

Bây giờ lật bìa sau của cuốn sổ tay, tôi xin đọc cho quý vị nghe bài thơ lục bát ghi rõ 7 điều tâm niệm mà các Cán bộ Phát triển nông thôn thuộc nằm lòng:

MỘT không tiết lộ cơ quan,
HAI không để súng rỉ han trong ngoài.
BA không phí đạn bắn hoài,
BỐN không trai gái bạc bài bê tha,
NĂM không bè phái gian tà.
SÁU không lừa dối, phiền hà cấp trên,
BẢY không vắng sở liên miên,
Và không đi phép lại quên đường về.
Áo đen trót nặng lời thề.
Lẽ đâu sao nhãng kẻ chê người cười ....

Mỗi năm vào Ngày quân lực, ta vẫn thường đề cao các quân binh chủng, từ không quân đến hải quân.Trùng khơi vạn lý, đi mây về gió. Rồi đến các bạn tổng trừ bị áo hoa rừng ngụy trang.Áo xanh sóng biển. Năm nay xin một lần nhắc đến áo đen cũng là Chiến sĩ cộng hòa. Nếu không phải là người lính chủ lực100% lúc sống, thì khi đã hy sinh, sổ tử tuất cũng đã ghi danh chính thực là người chiến sĩ miền Nam.

Chiến sĩ Lê văn Trí của chúng ta hết sức lương thiện và gương mẫụ Anh không muốn phiền hà cấp trên. Khi giặc về, làng xóm mất an ninh, nhưng nếu chống trả qua được hôm sau thì mọi thứ vẫn báo cáo vô sự. Sinh năm 1940, chết 1974. Hưởng dương 34 tuổi, một vợ 8 con, mỗi tháng lãnh lương căn bản $5,200, phụ cấp nguy hiểm $300, vợ $200, mỗi con $200. Xem trong giấy lương tháng cuối cùng tổng cộng lãnh 14,380$. Theo hối xuất thời đó chừng 15 mỹ kim. Sổ trang bị được lãnh 2 bộ đồ đen và chiếc ponchọ Trận cuối cùng vào đêm 18 tháng 3 năm 1974, cán bộ Lê văn Trí đã chiến đấu ra saỏ Người chiến sĩ đã chẳng còn sống để làm báo cáọ Nhưng biết rằng ba anh cán bộ áo đen có 3 cây súng và mấy kẹp đạn. Làm sao chống lại được một tiểu đội du kích. Không thể gọi B52 đến từ Thái Lan giải quyết chiến trường như anh em mũ đỏ, làm gì có hải pháo từ biển Đông như chiến sĩ mũ xanh. Cũng không trông đợi không quân bay lên từ phi trường Bình Thủy để yểm trợ cho sư đoàn. Nói gì đến cấp tiểu khu, ngay đến chi khu cũng còn không lưu tâm. Và những người lính áo đen tử trận âm thầm, nhẹ nhàng ngay tại quê nhà.

Ngày 6 tháng 11 năm 1973, cán bộ Lê văn Trí đã mời được 70 bà con nông dân đến học tập về ngưng chiến. Trong sổ tay anh báo cáo mọi thứ không trở ngại và bà con ta cũng hiểu về hiệp định hòa bình. Nhưng anh đã chết trước khi biết được rằng đây chỉ là bản hiệp định làm mất miền Nam. Sau cùng, người vợ quê mùa của anh vẫn còn giữ mãi những di vật một thời để ba mươi ba năm sau gửi cho Viện Bảo Tàng. Tại đây đã có quân phục của biết bao sĩ quan các cấp. Có huy chương đủ màu xanh đỏ tím vàng. Có bộ quần áo của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã mặc khi ra đị Có cuốn sách viết về thiền học mà đại tướng Cao văn Viên bỏ trong cặp sách trong chuyến di tản sau cùng.

Bây giờ chúng tôi có thêm hồ sơ của chiến sĩ áo đen Lê văn Trí và toàn bộ sổ hưu bổng tử tuất của gia đình một vợ 8 con.

Chính thể Việt Nam Cộng Hòa, với giấy tờ cam kết của ông bộ trưởng cựu chiến binh vào tháng 3 năm 1974, sẽ tiếp tục cấp dưỡng đứa con gái út của cán bộ Lê văn Trí cho đến tháng 2 năm 1991.

Lời cam kết đó chúng ta không giữ được. Bây giờ tất cả các vị Tổng Thống đã qua đờị Các Tư lệnh vùng thời kỳ 1975 cũng không còn nữạ Nếu ai muốn thay mặt Việt Nam Cộng Hòa gửi lời cáo lỗị Xin gửi thư về bà Nguyễn thị A, CMND 370366822. Tổ 19, ấp Bình Phong, xã Vĩnh Bình, huyện Vị Thanh, tỉnh Kiên Giang - Việt Nam.

*****

Nhân dịp ngày quân lực lần thứ 43, nửa đêm về sáng của bình minh tháng sáụ Từ San Jose, không gian cách xa nửa vòng trái đất, thời gian 34 năm trôi quạ Người lính già của một bộ tổng tham mưu tan hàng, lần mò đọc hết hồ sơ tử tuất của anh Cán bộ Xây dựng nông thôn hy sinh vào sáng ngày 19 tháng 3 năm 1974. Chúng tôi sẽ nối tiếp thi hành phần nào sự cam kết của Việt Nam Cộng hòa, ít nhất là cho một hồ sơ. Số tiền nhỏ bé gửi về cho bà A sẻ ghi tên ông Nguyễn. Nào ai biết đây là ông Nguyễn văn Thiệu hay ông Nguyễn khoa Nam.

Giờ đây ai sẽ nhận là ông Việt Nam Cộng hòa, đồng thanh tương ứng xin liên lạc :
giaochisanjose@sbcglobal.net hay: mailto:irccsj@yahoọcom

hoặc địa chỉ :
Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân và VNCH ( IRCC )
422 Park Ave. San Jose - CA95110. USA

Xin báo cáo niên trưởng Hạnh Nhơn được rõ.

Wednesday, June 4, 2008

Nhân Quyền Cho Người Chết

Ðấu tranh giành Nhân Quyền cho các Anh Hùng Vô Danh Những Tử Sĩ Việt Nam Cộng Hòa.


Giao Chỉ

Tin riêng ghi nhận được từ Việt Nam. 58 mẫu đất còn lại tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa cũ, thuộc xã Bình Thắng, quận Dĩ An đã được đơn vị quân đội cộng sản sư đoàn 7 bàn giao xong cho tỉnh Bình Dương, vào đầu tháng 7 - 2007

Giới chức hữu trách tỉnh ủy Bình Dương vừa cho biết đang tổ chức để lo công việc bảo vệ và quản trị. Các cơ sở doanh trại của đơn vị huấn luyện bộ đội đã di chuyển nay sẽ dùng để mở trường học. Khu mồ mả giữ nguyên và cho phép tảo mộ. Muốn cải táng phải xin phép. Ðiều quan trọng hơn hết là tỉnh Bình Dương theo lệnh Thủ tướng coi đây là nghĩa địa dân sự Bình An. Ðang nghiên cứu thể lệ để cho phép dân thường được chôn tại những nơi còn trống trong khu mai táng.

Ðây là một chủ trương hết sức thâm độc của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội.

Không cần phải xóa bỏ nghĩa trang quân đội Miền Nam, chỉ cần đưa ra chiêu bài dân sự hóa rất bình thường. Sau một thời gian đem dân vào chôn ngay các nơi an táng chiến sĩ VNCH . Mạnh ai nấy xây cất kiểu cọ dân sự. Với thời gian, ý nghĩa của mảnh đất lịch sử thiêng liêng không còn nữa. Xét trên một bình diện khác, nghĩa trang quân đội Biên Hòa là phòng tuyến cuối cùng còn lại của Miền Nam, nơi yên nghỉ của 16 ngàn tử sĩ Cộng Hòa đang bị tấn công trong trận sau cùng. Vì sự bình an của chiến hữu nằm dưới mộ phần, chúng tôi lên tiếng kêu gọi hãy đấu tranh nhân quyền cho người chết.

Bản nhận định và đề nghị

Bản nhận định và đề nghị về đề tài này đã được soạn thảo gởi dân biểu Mike Honda và các dân biểu Hoa Kỳ. Nhân danh là một người Mỹ gốc Việt cư ngụ tại San Jose, đơn vị của dân biểu Mike Honda, chúng tôi đã mời ông đến Viện Bảo Tàng VNCH để thảo luận về việc này, thăm mộ bia đem qua từ nghĩa trang quân đội năm 2004, quan sát mô hình nghĩa trang và các tài liệu liên hệ.

Sau đây là bản lược dịch tài liệu liên quan đến đề tài:

“ Human Rights for Unsung Heroes - The fallen Soldiers of South VietNam ”.

1) Vấn Ðề:

Từ năm 1975, người Việt đi tìm tự do đã tiếp tục rời bỏ quê hương trong 30 năm. Ðã có hàng triệu thuyền nhân, tỵ nạn, tù chính trị, con lai và sau đó là đoàn tụ gia đình. Tổng số 3 triệu người định cư trên toàn thế giới và cho đến năm 2007 hiện có 1 triệu 500 ngàn người lập nghiệp tại Hoa Kỳ. Những người còn ở lại Miền Nam là thương phế binh, cô nhi quả phụ và những người chết vì chiến tranh. Trong số đó có rất nhiều anh hùng vô danh, các tử sĩ của Miền Nam đã nằm lại trong lòng đất quê hương.

Trong chiến tranh Việt Nam đã có trên 300 ngàn chiến binh VNCH được chôn cất trong các nghĩa trang quân đội khắp Miền Nam. Kể từ năm 1965, Miền Nam xây cất một nghĩa trang quy mô tại quận Dĩ An, 30 cây số phía Ðông Bắc Sài Gòn. Khu đất 125 mẫu dành để chôn từ 30 đến 40 ngàn chiến sĩ. Trong 10 năm từ 1965 đến 1975 đã có 16 ngàn tử sĩ được yên nghỉ tại đây.

Nghĩa trang này gọi là nghĩa trang quân đội, nhưng chính là nghĩa trang quốc gia Việt Nam tương tự như nghĩa trang Arlington của Hoa Kỳ tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Chúng tôi hiện có đầy đủ tài liệu và mô hình bao gồm tất cả các di tích lịch sử như tượng Thương Tiếc, Cổng Tam Quan, Ðền Tử Sĩ và Nghĩa Dũng Ðài.

2) Tác giả:

Khi viết bản đúc kết về đề nghị này, tôi nhân danh một người Mỹ gốc Việt, cư ngụ tại Hoa Kỳ 32 năm và là giám đốc cơ quan định cư bất vụ lợi IRCC , Inc. từ 27 năm qua tại San Jose . Trước 1975 tôi là đại tá quân lực VNCH , làm việc tại bộ tổng tham mưu, có dịp liên hệ với công trình xây cất và bảo toàn nghĩa trang quân đội tại Biên Hòa.

Cá nhân chúng tôi là một trong số ít những người cao niên còn lại trong quân đội VNCH tại hải ngoại biết được các tin tức về nghĩa trang.

Tôi có sưu tầm hình ảnh, làm mô hình nghĩa trang cho viện Bảo tàng và là tác giả một tác phẩm duy nhất viết về đề tài này. Tựa đề: “16 ngàn tử sĩ ở lại nghĩa trang quân đội Biên Hòa” phát hành năm 1993. Chúng tôi cũng đã tổ chức chương trình tảo mộ nghĩa trang Biên Hòa trong suốt 10 năm qua dưới hình thức thân nhân thăm viếng.

Ngoài ra cũng có rất nhiều người Việt trên khắp thế giới và Hoa Kỳ hết sức quan tâm đến nghĩa trang quân đội tại Việt Nam đã cùng tiếp tay trong việc bảo toàn nơi yên nghỉ của thân nhân và chiến hữu.

Nhưng hiện nay nhà cầm quyền Việt Nam vừa ra thông cáo và bắt đầu áp dụng các thể thức dân sự hóa dưới hình thức làm mất ý nghĩa lịch sử thiêng liêng của khu đất cần được coi là di tích của quốc gia.

3) Bài học:

Là công dân Hoa kỳ, người Việt tỵ nạn đến đất này đã ghi nhận được bài học vĩ đại về câu chuyện phe miền Bắc đối xử với miền Nam sau cuộc nội chiến. Một trăm bốn mươi hai năm trước sau khi tướng Lee ký bản văn đầu hàng tướng Grant ngày 4 tháng 9 năm 1865 đã không có những hành động bạo hành thù hận của phe chiến thắng đối với người thua trận. Ngay cả sau khi tổng thống Lincoln của miền Bắc bị ám sát chết cũng không có các hành động trả thù của chính phủ liên bang đối với quân dân miền Nam. Tượng của tổng thống và tướng lãnh miền Nam vẫn được tôn trọng. Các nghĩa trang của phe thua trận được bảo toàn.

Và sau cùng, các di hài chiến binh miền Nam còn được mai táng trong khu dành riêng tại nghĩa trang quốc gia Arlington tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Tất cả những hành động cao quí đó không hề xảy ra tại miền Nam Việt Nam khi Sài Gòn sụp đổ năm 1975. Hàng trăm ngàn quân nhân công chức miền Nam bị tập trung trong tù cải tạo và hàng triệu người phải bỏ nước ra đi.

Sau 32 năm, qua nhiều giai đoạn và nhiều hoàn cảnh, Hoa Kỳ đón nhận một triệu 500 ngàn người Việt đi tìm tự do đến định cư tại đất nước vĩ đại này. Những tân công dân đã đóng góp vào việc xây dựng quê hương mới và đồng thời cũng đã học được bài học lớn về tự do dân chủ, đặc biệt đối với việc gìn giữ các mộ phần chiến sĩ sau cuộc chiến.

Nhưng câu chuyện về quê hương Việt Nam thì hoàn toàn khác biệt. Sau 30 tháng 4 năm 1975 bức tượng Tiếc Thương nổi tiếng của miền Nam bị kéo sập và nghĩa trang quân đội bị cộng sản phá hoại. Tuy nhiên phần kiến trúc còn lại và các mồ mả vẫn tồn tại. Mười năm sau này hoàn cảnh thay đổi và người Việt trong và ngoài nước bắt đầu có cơ hội thăm viếng trông nom mộ phần các chiến hữu.

4) Giá trị tinh thần:

Theo truyền thống Á Châu, di hài tử sĩ và mộ phần là những lãnh vực linh thiêng cần được cả hai phía tôn trọng trong cuộc chiến. Phía Tây Phương cũng có cùng chung quan điểm. Chiến binh miền Nam trong cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ đã được an táng ngay trong nghĩa trang quốc gia Hoa Kỳ cũng như tại các nghĩa trang của quân đội miền Nam khắp các tiểu bang. Sau đệ nhất và đệ nhị thế chiến, nghĩa trang của quân đội Ðức vẫn được phe Ðồng minh bảo toàn.

Nghĩa trang của Quốc Dân Ðảng tại Trung Hoa, vẫn được chính quyền Cộng sản gìn giữ như là một di tích lịch sử của quốc gia.

Cho đến năm 2005, ba mươi năm sau cuộc chiến, chính quyền Cộng sản Hà Nội không hề lưu tâm và đề cập đến nghĩa trang Quân đội của miền Nam tại Biên Hòa. Mặc dù bỏ hoang phế nhưng nghĩa trang này vẫn còn tồn tại với vẻ hùng tráng đặc biệt qua các tượng đài, kiến trúc và mộ phần. Hiện nay vẫn còn Cổng Tam Quan, Ðền tử sĩ và Nghĩa Dũng đài

5) Pháp lý:

Nước Cộng Hòa Xã Hội Việt Nam là thành viên của Liên Hiệp Quốc từ 20 tháng 9 năm 1997 nên có nghĩa vụ phải tôn trọng các thỏa ước quốc tế.

A- Công ước Geneve 12 tháng 8 năm 1949, chương III điều 120 và 121 nói rõ về trách vụ bảo vệ tù binh và bảo toàn mộ phần của các phe tham chiến.

B- Ðiều 23 của hiệp định đình chiến Geneve ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 về việc bảo toàn gìn giữ nghĩa trang trong vùng trách nhiệm.

C- Ðiều 8 của Hiệp Ðịnh Ðình Chiến Paris ký ngày 17 tháng 1 năm 1973 lại một lần nữa xác định các quốc gia ký kết có trách nhiệm bảo vệ nghĩa trang và phần mộ của phe đối nghịch.

6) MIA Hoa Kỳ và Việt Nam

Sau cuộc chiến tại Việt Nam, chính phủ Mỹ đã được chính quyền Hà Nội giúp đỡ trong việc đi tìm hài cốt binh sĩ. Phe cộng sản Việt Nam cũng nỗ lực đi tìm hài cốt bộ đội để đem chôn cất tại các nghĩa trang khắp mọi nơi. Trong khi đó mộ phần của các chiến binh Nam Việt Nam, của các tù binh và tù cải tạo tại miền Trung và Bắc Việt chưa bao giờ được đặt thành vấn đề. Gia đình thân nhân không có phương tiện để thực hiện công việc tìm kiếm. Ðặc biệt là các mộ phần và di hài chiến sĩ Cộng Hòa tại miền biên giới Cam Bốt, Lào, cùng các phần mộ tù binh tại Hàm Tân, Thanh Hóa và miền thượng du Bắc Việt.

7) Hiện trạng:

Cuối năm 2006 Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng ra lệnh bàn giao khu nghĩa trang quân đội từ giới chức quân sự qua tỉnh Bình Dương. Cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại hết sức quan tâm đến việc này vì những điểm sau đây qua kinh nghiệm nhiều năm:

1) Cộng sản đã phá hủy bức tượng Thương Tiếc nổi danh tại nghĩa trang ngay sau 30 tháng 4 năm 1975

2) Năm 2002 cộng sản cắt bớt hơn 10 thước ngọn tháp của Nghĩa Dũng Ðài.

3) Trước 1975 toàn thể khu nghĩa trang rộng 125 mẫu với 16 ngàn ngôi mộ. Ngày nay chỉ còn lối 10,000 ngôi mộ. Gia đình có di chuyển một phần. Một phần bị phá hoại. Không có ai kiểm tra để biết con số chắc chắn.

4) Phẫn còn lại để bàn giao giữa quân sự và dân sự đã hoàn tất tháng 6 năm 2007 chỉ còn 58 mẫu. Như vậy sau 30 năm do bộ đội quản lý đã sử dụng 67 mẫu đất để làm doanh trại, nhà cửa, lập nhà máy nước Bình An và lập ra Ấp Bình Thắng.

5) Với 58 mẫu đất bàn giao cho phía dân sự cũng chỉ còn lối 30 mẫu có mồ mả.

Phần còn lại cũng đã được xây cất doanh trại huấn luyện và nay tỉnh Bình Dương định dùng làm trường học.

6) Ðiều quan trọng hơn hết là, theo lệnh của Thủ Tướng từ Hà Nội, tỉnh ủy Bình Dương đang nghiên cứu để cho phép dân thường đem thân nhân vào chôn tại đây và coi đất này là khu nghĩa địa dân sự Bình An.

8) Ðề nghị

Tháng 2 ố 2007 Thủ tướng Hà Nội mở đường dây trên mạng gọi là đối thoại trực tuyến với người Việt mọi nơi. Chúng tôi có đưa vấn đề nghĩa trang quân đội VNCH ra hỏi. Tiếp theo ngày 30 tháng 4 - 2007 chúng tôi gởi thư trực tiếp đặt lại vấn đề. Cả hai lần đều không được trả lời.

Ngày nay vì tính cách thời sự đặc biệt của vấn đề, chúng tôi yêu cầu Quốc hội Hoa Kỳ đưa ra nghị quyết đòi hỏi nhà cầm quyền Hà Nội thực hiện các điểm sau đây:

1 # Yêu cầu giữ nguyên tình trạng nghĩa trang quân đội VNCH tại Biên Hòa. Quốc hội Hoa kỳ cần lưu ý xác định rõ ràng với nhà cầm quyền Việt Nam đây là di sản quốc gia và khu đất thuộc về lịch sử. Không thể phá hủy, di chuyển, hay sử dụng qua các mưu đồ chính trị dưới mọi hình thức.

2 # Cho phép thân nhân, gia đình, chiến hữu được thăm viếng, tu bổ, sửa chữa mộ phần và thực hiện các nghi lễ tôn giáo cho người đã khuất. Thân nhân không được xây cất các phần mộ quy mô kiểu cách. Trong khi sửa chữa các mộ phần cũ, phải giữ gìn hình thức đã có từ trước. Tuyệt đối cấm không cho dân sự chôn cất trong khu vực được coi là di sản quốc gia.

3 # Bảo toàn tất cả các công trình kiến trúc hiện có gồm cổng Tam quan, đền Tử sĩ, và Nghĩa Dũng đài

4 # Cho phép và dành mọi sự dễ dàng cho gia đình, thân hữu, chiến hữu cũng như các đoàn thể từ thiện từ Hoa Kỳ về Việt Nam giúp gia đình đi tìm di hài tử sĩ trên toàn quốc để đem về chôn cất tại các nơi thích hợp.

5 # Với các nhận định kể trên, xin quốc hội yêu cầu tổng thống Hoa Kỳ, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao và ông lãnh sự Hoa Kỳ tại Việt Nam sử dụng mọi ảnh hưởng và quyền hạn để đòi hỏi chính phủ Việt Nam thực hiện các nhu cầu kể trên. Ðòi hỏi này dựa trên căn bản Việt Nam là quốc gia hội viên của Liên Hiệp Quốc, dựa trên sự quan hệ giao thông Việt Mỹ hiện nay và dựa vào tư cách công dân của 1 triệu 500 ngàn người Việt cư ngụ tại Hoa Kỳ.

Trên đây là phần lược dịch bản nhận định và đề nghị chúng tôi gửi đến dân biểu Mike Honda để xin hạ viện cứu xét. Khi dự thảo hoàn tất, chúng tôi sẽ báo tin quí vị để cùng gởi thư xin các dân biêu Hoa Kỳ khắp nơi ủng hộ và chấp thuận.
Bản nghị quyết chính thức của Hạ Viện khi được thông qua sẽ phổ biến rộng rãi.
Trải qua nhiều năm, Hoa Kỳ đã nỗ lực giúp cho quân dân chính miền Nam qua các chương trình định cư nhân đạo. Chào đón thuyền nhân tỵ nạn. Tiếp nhận cựu tù chính trị, con lai và mở rộng chương trình đoàn tụ. Tất cả đều là những người còn sống trên đất tự do.

Chúng tôi tin tưởng rằng ngày nay đã đến lúc chúng ta cùng đấu tranh cho những người đã chết.

Giành lại nhân quyền cho các anh hùng vô danh
Cho các tử sĩ của Việt Nam Cộng Hòa.
***
Cùng đăng trên báo này là:
Bản Anh ngữ gửi dân biểu Mike Honda và các dân biểu Hoa Kỳ.
IRCC, Inc.420 Park Ave. San Jose CA. Tel: 408 971 7878 Email: irccsj@yahoo.com